Kho Báu (10) - Lệ Hằng
KỲ VỌNG
***
KHO BÁU
TRUYỆN DÀI CỦA LỆ HẰNG
(10)
*****
Tộp Anh dựng chân chống xe đạp lên vệ cỏ bên đường, ngay sát cây bạch
đàn. Nó đi tới đi lui đã ba vòng vẫn chưa thấy cái đứa đã hẹn nó đâu cả. Nó lại
gần bụi tre nhấp nhổm nhảy lên nhòm. Quán đang đông khách, tiếng chào hàng và
tiếng thêm thêm bớt bớt tiền tiền nong nong nhặng xị làm nó càng nóng ruột. Trong
quán, Nhỏ cũng xốp gan xốp phổi vì chưa mở miệng được. Phải hôm tạnh ráo, góc
quán nhà nó đông vui như cái chợ xép và nó vinh dự được giao hẳn gian hàng hoa
quả tươi. Công việc làm nó tự hào và làm cả ngày không chán, nhưng chiều nay nó
nhất định phải ra khỏi quán, nó phải đi để xem một người sang trọng, giàu có,
xinh đẹp hơn cả trên phim. Một người mà những lời lẽ bay bổng hoa lá cành nhất
của Gấm không tả hết được cũng không thể vẽ ra giấy cho nó xem. Có tìm đỏ mắt
khắp mấy làng cũng không ra người nào giống vậy. Chính Gấm đã quả quyết như thế.
- Ba cho con qua chú Thứ chơi tí, ba hì? Con đi chặp thôi, ba hì. Ba hì?
Nó nhắc lại “ba hì, ba hì” rồi mất hút ngoài đường. Tộp Anh cắm đầu đạp,
Nhỏ ngồi sau xòe chân cho hai cái ống quần rộng thùng thình tung đùa cùng gió
và nắng. Nắng tháng Chạp hiếm hoi và bánh lọc tôm thịt cùng bột lọc nướng tháng
Chạp cũng hiếm nốt. Giờ này người ta rục rịch đổ bánh bò, đóng bánh khô, gói
bánh uôi bánh tét cả rồi nên dĩa bánh lọc ấy với Tộp Anh là thượng phẩm.
Quả là hàng thượng phẩm, Tộp Anh thổi phù phù cục bột lọc nướng sau khi giải
quyết gọn ghẽ dĩa bánh lọc tôm thịt. “Người giàu tinh thiệt, bánh khô bánh bò
làm chi ngon bằng bánh lọc.” - Tộp Anh nghĩ thầm. Kế bên, hai đứa con gái thủ
thỉ trầm trồ:
- Kim cương hay đá quý rứa mi hè? – Nhỏ hỏi Gấm về những hạt lấp lánh đính
trên đôi giày cao gót màu nhung huyền ấy.
- Tau không biết.
- Dì của mi răng mi không biết!
…
Nhà trên người lớn huyên thuyên trò chuyện, nhà dưới con nít hóng hớt tỉ
tê. Chợt, tên Gấm được xướng trên bàn ăn. Nhỏ rối rít:
- Mi đi Sài Gòn là mi được học may tề. Đã chưa.
- Mi được đi ô tô luôn đó. Đã chưa.
- Mi cũng giàu y như dì mi đó...
Vẫn chỉ giọng véo von của Nhỏ cất lên. Gấm đang bận, nó căng óc suy nghĩ
xem được học may thì nó may thứ gì đầu tiên.
***
Chú Thứ phải đau đầu mất mấy hôm mới có câu trả lời cho đề nghị của dì
Tuyết. Quyết định với thím Thứ thì có phần dễ dàng hơn vì dì Tuyết là người chị
duy nhất của thím và cũng là người thím vô cùng tin tưởng. Dì Tuyết thành công
trong đường làm ăn mà thất bại về đường con cái. Đúng là trời không cho ai tất
cả, dì Tuyết được của cải thì vắng vẻ cảnh nhà nên thèm tiếng nói con trẻ vô
cùng. Đã qua tuổi bốn mươi nên dì không nuôi hi vọng có thể sinh đẻ như người
ta nữa nên chỉ muốn đem Gấm vào Sài Gòn, trước là để nhà bớt quạnh hiu sau là
cho Gấm học việc dần dần mai mốt lớn có thể thay dì quản lý xưởng may. Dù biết
sẽ nhớ con quay quắt nhưng thím nghĩ chẳng còn tương lai nào tốt hơn cho Gấm.
Nhưng chú Thứ thì phải mất ba hôm trầm ngâm mới quyết được. Không đồng ý
thì phụ tấm chân tình của dì Tuyết quá. Bởi chú thật thà kể chuyện học hành của
Gấm nên mới dẫn đến lời đề nghị đường đột ấy. Cũng chỉ vì lo cho tương lai của
Gấm dì ấy mới nhọc công thuyết phục chú, chỉ tiếc con đường vẽ ra lại nhắm đích
học hành như chú muốn. Dù dì Tuyết đã nói sẽ cho Gấm đi học để có bạn có bè, một
buổi học chữ một buổi học may nhưng chú chắc chắn chẳng chữ nào lọt vô đầu Gấm.
Con gái học cha, chú rành tính Gấm y như rành tính mình. Ở đây có bác Cả kèm cặp,
có thím Thứ la nạt đánh mắng hằng ngày mà Gấm vẫn lăm le đội sổ thì vào trong
đó có máy may có vải vóc xúng xính Gấm làm sao nhét chữ vào đầu. Bởi Gấm giống
chú như tạc nên chuyện học của Gấm chú toàn cứng họng có dám mở miệng quát mắng
bao giờ đâu. Không ai nói với Gấm hồi nhỏ chú “đội sổ” trong lớp nhưng tự chú
luôn thấy bất lực lẫn xấu hổ không thể nói lời tử tế để răn dạy con được. Càng
ngày nỗi mặc cảm mình từng quăng sách bụi tre, từng đội sổ, từng bỏ học càng lớn.
Với đà hiện nay liệu Gấm có qua nổi cấp ba? Khi ấy lại phải quàng chân lên xin
học nghề. Cuối cùng dù cảm giác bất mãn cứ đeo bám triền miên chú vẫn chọn cái
nghề cho Gấm.
Bác Cả gái thấy đó là quyết định sáng suốt. Khi mà người làng lũ lượt
vào Sài Gòn học may thì Gấm với tư cách là con bà chủ chẳng phải ngon lắm sao?
Bác Cả trai trầm ngâm y như chú Thứ. Bác buồn, mai mốt nó lại ít chữ như ba nó
và bác nó. Ông Trưởng suy nghĩ xa xôi, lo lắng:
- Hắn học chữ còn chưa ra chi, chừ học may biết có may đặng việc cho người
ta không?
- Được chứ nội. Gấm giỏi lắm nội, để con cho nội coi nè.
Gấm không dốt, Gấm chẳng qua là giỏi theo một cách khác! Cơ hội để Nhỏ
chứng minh cho người lớn thấy điều nó ấp ủ đã đến. Đằng nào hai tuần nữa Gấm
cũng đi Sài Gòn, chắc chắn chẳng ai lôi Gấm ra quất cho quắn đít vì tội thêu
thùa hay vẽ vời tầm phào nữa. Nó rút trong cặp ra chiếc khăn tay Gấm thêu đạt
điểm mười môn thủ công và tập giấy Gấm vẽ những bộ áo quần do Gấm tự thiết kế
mang đến chỗ bàn nước cho ông Trưởng và bác Cả xem. Linh thiệt, Gấm vừa tặng nó
lúc chiều.
- Cả lớp chỉ có một con điểm mười ni thôi.
Nhỏ trải chiếc khăn có họ tên của Gấm trên bàn nước. Nó nhấn mạnh con - điểm
- mười để khẳng định Gấm cũng có điểm mười nhưng Gấm chẳng bao giờ được hỏi: thủ
công, mỹ thuật mấy điểm? mà lúc nào cũng là: Toán mấy điểm? Tiếng Việt mấy điểm?
Nhỏ lật một lượt hết mười tờ giấy vở chi chít nét vẽ của nhà thiết kế thời
trang, lòng hả hê chốt câu quan trọng cuối cùng.
- Ba với nội yên tâm, Gấm mà học may là nhất Sài Gòn đó.
***
Mưa xuân như bụi bay trong gió. Mưa giăng tấm màn nhẹ tựa bông lên hàng
chè tàu vừa chấn thẳng tắp trước ngõ nhà ông Trưởng. Nồi bánh uôi, bánh tét đã
chín. Khách trong quán cũng về từ lâu. Năm giờ chiều từ đường nhà ai cũng đã
sáng đèn đợi Giao thừa. Trên hiên nhà, con Mướp rảnh rang vờn cái đuôi của nó rồi
chễm chệ ngồi liếm bộ lông được vẽ bằng mực tàu ấy. Nhỏ lúi húi phụ ông Trưởng
chà đám rêu trơn trượt trong sân bằng cái bàn chà sắt. Nó đưa bàn chà thoăn thoắt
mong chóng xong việc để chính thức nghỉ Tết. Kìa, dáng Gấm thấp thoáng ngoài
ngõ. Nhỏ mừng rơn, có thêm đứa chà sân phụ rồi đây. Gấm bước vào sân và chẳng
thèm nhìn Nhỏ. Mặt Gấm nghiêm nghị lạ kỳ. Rất vội vàng, Gấm chạy ra vườn. Nhỏ thả
bàn chà trên hiên, cuống quít chạy theo. Gấm cứ lầm lũi chạy như không biết Nhỏ
đang theo sát gót. Gấm dừng lại chỗ cây thị. Nhỏ tẽn tò. Ồ, Gấm chôn kho báu mà
chạy theo làm gì. Nhỏ chạy lui để nhường không gian riêng tư cho Gấm.
- Ê, đào giùm tau với.
Bất ngờ, Gấm gọi giật lại. Gấm làm dấu chỗ chôn kho báu không chuẩn lắm
nên chúng mất nhiều thời gian mới lấy cái túi nylon ấy lên được. Gấm lấp đất lại,
Nhỏ bàng hoàng;
- Ơ, không chôn kho báu nữa à?
- Không. Tau phải trả cho ba tau.
- Kho báu của mi mà. – Nhỏ tiếc nuối nhìn chiếc túi.
- Nhưng chừ tau học may là chính, không học chữ nữa nên phải trả cho ba.
Gấm phủi tay, mở túi nylon chìa cây bút máy cho Nhỏ xem. Ngày Ba Mươi Tết
đêm xuống nhanh, bóng tối chập choạng làm nắp bút như lóa lên trong mắt chúng.
- Đẹp hì. Ba tau nói được học sinh giỏi mới cho đổ mực vô viết.
Nhỏ xuýt xoa, nó chưa thấy cây bút nào đẹp đến thế. Nó Gấm lấp đất lại
giúp Gấm, tay dính bẩn nên chẳng dám sờ vào cây bút kho báu ấy.
***
Tối như đêm Ba Mươi và đêm Ba Mươi của ngày cuối năm tối đen đặc sánh,
màu mà những đêm Ba Mươi khác không thể có. Ông Trưởng ngắm lại bình hoa, mâm
quả để giao thừa cúng dâng trời đất đang đặt ngoài hiên. Chợt, ông nheo mắt
nhìn ra. Một bóng đèn pin thấp thoáng ngoài bụi tre rồi hắt vào vườn chè những
đốm sáng vàng trong vắt. Mắt ông sáng lên những tia cười tươi vui. Vườn chè
cũng được khua thức. Đây đó có tiếng chim con chiếp chiếp rúc vào cánh mẹ. Nước
mưa đọng trên lá lóng lánh lăn xuống đuôi lá rồi rỏ tong tong xuống lớp lá mục
bên dưới. Đốm sáng đèn pin lia qua cây mai già trước ngõ đúng lúc nụ mai biếc đầy
đặn hé mở cánh đầu tiên, mảnh lụa vàng bung ra hứng lấy giọt châu từ trên cao sà
xuống. Một tối giao thừa trọn vẹn cho ông khi có cả vợ chồng chú Thứ và Gấm
quây quần.
Ông Trưởng xé nhỏ việc giao cho mỗi đứa con một chút để không đứa nào rảnh
tay lạc nhịp. Chú Thứ xếp giấy tiền, bác Cả trai xếp giấy vàng bạc. Nhỏ và Gấm
soạn chén dĩa, thím Thứ múc chè, bác Cả gái cắt bánh tét... Chợt, từ nhà trên
có tiếng gọi Nhỏ. Là giọng chú Thứ. Nhỏ bất ngờ, nó chạy lên rón rén đứng cạnh
bàn nước. Gấm cũng chạy lên đứng cách đó mấy bước chân.
- Chú tặng con. Bơm mực vô mà viết. Chú mới viết đúng một lần thôi đó.
Là nó, chiếc bút máy có nắp vàng chói. Chiếc bút máy mà bác Cả nhìn qua
đã đọc được số tuổi của nó. Chiếc bút bác từng mơ ước. Nhỏ run run. Nó thích
cây bút lắm nhưng đây là kho báu của Gấm. Nhỏ quay lại nhìn Gấm, Gấm gật đầu ra
hiệu. Nhỏ ngỡ ngàng nhìn cây bút trên tay, tim như múa. Ôi, nó đang giữ một kho
báu trên tay. Một kho báu đã vẹn nguyên hai lăm năm có lẻ.
Bác Cả rưng rưng, vẫn là cảm xúc của lần đầu tiên thấy nó. Chú Thứ cũng
rưng rưng cảm xúc ấy và hơn nữa là nỗi ăn năn bất lực hai mấy năm qua chưa một
lần giải tỏa. Đây là cây bút gia bảo bà Trưởng để lại cho chú Thứ. Không ai (kể
cả ông Trưởng) biết tường tận chuyện bà Trưởng nhờ người bà con bên ngoại mua
giùm hai cây bút máy thật xịn trên thành phố mà tại sao chỉ được một cây. Bà
không nói rõ, bà chỉ hẹn mai mốt mua thêm cây nữa. Bác Cả mê cây bút nhưng là
anh nên nhường chú Thứ. Chính bà cũng muốn như vậy, không phải vì chú là em mà
là vì để động viên chú học. Chú Thứ lúc ấy tuổi cũng bằng Gấm bây giờ, bà giao
cây bút với tâm nguyện chú đừng lêu lổng nữa. Và chú Thứ viết đúng một trang
thì súc mực đem cất. “Lo mà học” “học cho giỏi như anh Cả” … mấy câu ấy cứ trở
đi trở lại trong đầu chú làm cây bút trở nên nặng nề chú cầm không nổi. Ba
tháng sau, bà mất. Chú ôm cây bút kỉ vật bo bo tự hứa cố gắng, cố gắng đến khi
nào xứng đáng thì đổ mực vào. Nhưng mỗi ngày qua là một ngày trượt dài theo
đánh đáo…
- Cây bút ni đáng ra mệ nội phải cho bác Cả mới đúng. – Chú Thứ nhìn Gấm.
Nghỉ một đoạn lấy hơi, chú tiếp. – Bác Cả học giỏi chứ…
- Mỗi người giỏi một kiểu. Như tau học chữ thì được mà ra ngoài làm ăn
có giỏi như bây mô.
Bác Cả quay sang nhìn Gấm.
- Con Gấm cũng giỏi lắm đó. Vô Sài Gòn học nghề hay học chữ chi cũng
ráng mà học cho thành tài, nghe Gấm.
Giọng bác Cả nghe vừa bề trên vừa cứng cỏi vô cùng. Gấm lại gần bàn nước
dõng dạc:
- Dạ, con nhớ rồi bác.
Dường như đây là lần đầu tiên nó được người lớn khen giỏi mà lại là
chính bác Cả của nó khen. Nó hạnh phúc rạng rỡ mặt mày.
- Học gần đội sổ, giỏi chi mô mà giỏi. Em sợ sau ni hắn không có nghề mần
ăn nên phải cho học nghề sớm.
- Hắn học chữ không giỏi thì hắn giỏi cái khác. Ba mạ chi bây mà con
mình giỏi cũng không biết. – Bác trách chú Thứ và cũng là tự trách sự thờ ơ của
bác từ đó đến nay. – Nhỏ, đem mấy cái nớ ra cho chú coi, con!
Thím Thứ lật đật thả chiếc vá trong nồi chè chạy lên nhà trên. Lòng thím
như có thác đang reo, chẳng biết mô tê gì nhưng Gấm được thừa nhận giỏi là thím
thấy cuộc đời nở hoa phơi phới. Nhỏ bày chiếc khăn tay và tập thiết kế thời
trang của Gấm lên bàn nước, trước mặt chú Thứ. Đúng là học không lo học mà chỉ
lo làm ba thứ tầm phào nhưng sao Gấm thêu đẹp quá. Nếu không có họ tên Gấm trên
đó thì chú thím thật không dám tin.
- Hắn tự học mà hắn thêu được ri là hắn có hoa tay rồi đó. Dì hắn mà có
điều kiện thì nhớ xin cho hắn đi học vẽ, không khéo hắn thành họa sĩ hoặc nhà
thiết kế thiệt đó.
“Hoa tay”. “Họa sĩ”. “Nhà thiết kế”. Toàn những từ lạ hoắc lạ huơ, lạ
không phải vì họ chưa từng nghe mà lạ vì những từ đẹp đẽ ấy đang dành cho Gấm,
vận vào cuộc đời Gấm. Chú Thứ, thím Thứ lâng lâng. Giao thừa năm ấy không được
đốt pháo nhưng những tràng pháo trong lòng họ nổ đì đùng và sáng chấp chới thâu
đêm.
Lòng ông Trưởng cũng đang có pháo. Những tràng pháo không đì đùng không
rực rỡ mà âm thầm lách tách reo ca. Ông không dám tin rằng trước khi nhắm mắt
có thể một lần nhìn thấy anh em họ cởi mở với nhau. Hai người con trai của ông,
Cả và Thứ, người nào cũng ôm những uất ức nặng trĩu mà lớn lên. Chú Thứ chưa
bao giờ thấy mình được coi trọng, được yêu thương chỉ vì mình học không giỏi bằng
anh. Bác Cả lại hận chú Thứ, cả nhà chăm chăm lo cho chú học vậy mà chú bỏ
ngang. Ông Trưởng buồn, rốt cuộc chẳng thằng nào học tới nơi tới chốn để làm việc
trên giấy trên tờ như ông bà mơ ước. Ông luôn dằn vặt rằng mình là người cha tồi
khi hiểu con mà không sao xoa dịu tâm hồn cho con được. Mỗi khi ông cố kéo hai
đứa con lại gần nhau thì vô tình làm chúng xa nhau hơn một bước. Mỗi khi ông cố
gắng sửa sai thì buồn thay cái sai lớn thêm một chút. Rồi trưởng thành, rồi lập
gia đình, bác Cả chú Thứ không còn kháu ó nặng nhẹ với nhau nữa nhưng thật
trong tim mỗi người về riêng một góc, dù chung một vòm trời chung một mái nhà
mà chưa bao giờ chung một niềm thông cảm cho nhau như hôm nay.
Ông Trưởng đốt tiếp nhang thắp trong từ đường. Ông dừng lại rất lâu trước
di ảnh bà. “Đợi mấy chục năm cũng đáng, em hè?!”
***
Mồng Ba Tết lạnh căm căm. Đây là ngày nhiệt độ hạ xuống thấp nhất trong
đợt rét kéo dài này. Đường vào nhà ông Tý cỏ hai bên được xớt thẳng tắp còn
nguyên dấu cuốc. Mấy con gà co ro trong góc bếp vì lạnh. Đến hôm nay hoàn thành
nhiệm vụ chúc Tết nội ngoại chúng mới mang Tết lên cho ông được. Nhỏ và Gấm móc
túi đổ ra dĩa một nắm to hạt dưa, Tộp Anh bày ra một dĩa mứt gừng. Ấm nước lá vối
còn nóng hôi hổi nhưng chẳng thấy ông đâu. Chúng nhìn quanh. Ông Tý của chúng không
có Tết. Ông vẫn uống nước lá, vẫn ăn cơm với dăm con cá thia lia kho mặn, vẫn ngủ
chiếu rách, vẫn mặc áo vá chằng vá đụp và ông vẫn chỉ một mình cho đến hôm nay.
Chúng ra vườn tìm. Lạnh run thế này mà ông cuốc với trồng gì nữa không biết.
- Xùy, xùy. Ở chỗ mô thì về lại chỗ nớ. Nước sông không phạm nước giếng.
Ông Tý giương mắt nhìn con rắn đang gầm ghè dữ dằn và đuổi nó đi bằng những
lời chân thành, lý lẽ. Con rắn to phải bằng cổ chân chúng. Tộp Anh tới sát bên
ông, Nhỏ và Gấm sợ hãi đứng cách mấy bước. Ông lầm bầm đọc tới đọc lui, lát sau
con rắn đầu hàng sự kiên nhẫn của một người đã từng nổi danh bắt rắn nên bỏ đi.
Ba ông cháu ăn cái Tết rộn ràng, ông ngậm nghe vị mứt gừng cay tan trong
họng bụng ấm dần lên. Nhỏ và Gấm cắn hạt dưa tách tách, vỏ rớt lả tả trên đất.
Tộp Anh đăm chiêu, lâu lâu nó mới đưa lên cắn một hạt. Nó buồn. Nó nung nấu một
ý nghĩ táo bạo. Tết của ông chẳng có gì trất. Ngôi nhà ngày một nghèo đi, xơ
xác đi, còm cõi đi y như ông, sao đành lòng.
- Ôn, răng ôn không bắt con rắn nớ? Hắn tự tìm vô đây mà.
Ông Tý không trả lời. Ông đang bận thưởng thức lát mứt gừng.
- Lâu lâu ôn bắt một lần có răng mô ôn.
Ông Tý hiểu Tộp Anh muốn thỉnh thoảng ông bán con rắn có ít tiền mua
thêm lát thịt ăn cho láng miệng nhưng ông không chiều theo ý nó được. Không thể
bội tín với chính mình. Ông đã thề bỏ nghề bắt rắn vì Tộp Anh, ngay hôm ấy, hôm
Tộp Anh liều mình vì ông. Nó hiểu ý nghĩa của lời thề nên không nói thêm gì nữa.
Nó lặng lẽ ước cho mình mau lớn, cho nó làm ra tiền…
Điều ước của nó còn lâu mới thành hiện thực được, nhưng điều ước của Gấm
thì gần ngay trước mặt. Vài ngày nữa nó sẽ đi Sài Gòn, nó sẽ học may, nó sẽ biết
may. Sớm thôi. Bác Cả đã nói nó có hoa tay nên đường đến với chiếc áo khoác dày
sụ nó tự tay may cho ông là rất gần. Một năm chứ mấy.
(CÒN TIẾP)
Kho Báu được viết ra bằng tấm lòng tha thiết của tác giả, những mong truyền đi thông điệp rằng con người sinh ra không phải chỉ để “trở về cát bụi” mà là để đi vào trái tim của những con người khác và sống trong cuộc đời của họ. Yêu thương là điều kỳ diệu nhất của trái tim nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng có thể sống trọn vẹn với nó. Cuộc đời ai rồi cũng có những mảng tối, những bất hạnh, những uất ức, hãy dùng tình yêu để xoa dịu nỗi đau của quá khứ, để vị tha với chính bản thân mình, để trân trọng món quà của hiện tại và để thanh thản bước đến ngày sau. Và, xin mở lòng ra, xin đừng thờ ơ với bất hạnh của những người bên cạnh. Làm sao để “thương mình, thương người”? Đấy là câu hỏi không thuộc về riêng xã hội nào hay thời đại nào mà thuộc về con người trong mọi hoàn cảnh sống.
Kho Báu (10) - Lệ Hằng
Reviewed by Lê Sính
on
11:40 AM
Rating:

No comments: