Về khi nắng còn thơm (11) - Lệ Hằng
VỀ KHI
NẮNG CÒN THƠM
TRUYỆN
DÀI – LỆ HẰNG
*(11)*
*****
Nếu đến cả tấm vé cuối cùng cũng không dành cho tôi thì chiều
hôm ấy, trên sân ga cuộc đời, có kẻ lữ hành ngồi khóc thương kỉ niệm. Lỡ một
chuyến tàu thời gian.
Tôi thức
dậy trong cảm giác miên man khó tả. Đã là ngày cuối cùng của năm, còn gần hai
chục tiếng nữa thôi thì ngày hôm nay sẽ thành ngày cũ còn tôi sẽ thành người cũ
của bao mùa trước. Ngoài kia, người ta đang sửa soạn căn phòng đón khách cho thật
mới thật tinh tươm, và họ cũng sắp xếp lại căn phòng tâm hồn mình để nghênh
xuân bằng niềm phơi phới. Họ cất bớt đi những thứ đã cũ, dù nuối tiếc dù vấn
vương thì chúng cũng cũ mất rồi, đâu thể mặc mãi một tấm áo năm ngày qua năm
khác khi mà chúng không còn vừa vặn. Căn phòng nào cũng có giới hạn kích thước,
hiển nhiên rồi. Căn phòng của tôi, tôi chất từ đầu đến cuối toàn những thứ cũ kỹ,
chúng chỉ cũ chứ không hoen ố mục nát. Vì vậy mà bao lâu rồi tôi chưa sắm thứ
gì mới cho mình.
Tôi
nhìn ánh sáng lờ mờ qua tấm rèm cửa sổ, thế này là đã sáng trợt rồi đây. Như
thường lệ, tôi với lấy điện thoại xem giờ rồi vào Facebook lướt qua những dòng
tin nóng hổi một cách dửng dưng. Chỉ có hộp thoại messenger và những dòng tin
nhắn của Bé Ti tối qua là đủ sức làm cơ mặt tôi thay đổi, nó giãn ra còn môi
thì nhếch lên một nhịp. Tôi cười. Tôi nhìn màn hình điện thoại chờ nó trực tuyến
để nó mang Khe Trong vào Sài Gòn cho tôi, ba ngày Tết của tôi chắc chắn bớt buồn
bớt tủi bớt cô đơn. Chờ hơn ba mươi phút mà không thấy Facebook nó sáng, tôi bật
khỏi giường đánh răng rửa mặt rồi quay lại, vẫn chưa thấy nó đâu. Suốt cả ngày,
cứ chốc chốc tôi lôi điện thoại ra ngó nghiêng hoặc giật mình khi tiếng tích
tích báo messenger có tin nhắn mới vang trong túi áo nhưng chẳng có tin nhắn
nào đến từ nó. Cảm giác hụt hẫng hồi ôn thi Đại học thấy phòng bên kia tắt điện
tối thui ùa về nguyên vẹn. Thiệt là ngớ ngẩn, ngày Ba Mươi Tết người ta có ti tỉ
việc phải làm phải vội ai rỗi hơi ngồi gõ tin nhắn cho tôi chứ.
Dù sống
trong cảm giác đợi chờ nhưng ngày vẫn trôi nhanh chóng mặt, đã đến giờ người ta
sửa soạn đón giao thừa. Bé Ti cũng vậy, nó đang nấu chè xanh đánh. Thằng Út vừa
mới gắn thẻ chị nó vào bức ảnh mới nhất trên Facebook sau khi làm nguyên cuốn
Album “Tất niên” đến hơn bốn chục tấm làm tôi thả tim muốn liệt cả phím cả tay.
Lúc này bốn mái đầu đang chụm lại bên nồi chè xanh đánh. Bé Ti dùng đôi đũa cái
vừa khuấy chè vừa cười toe toét, khói bếp và hơi nước từ nồi chè bay lên ôm lấy
gương mặt nó, quyện vào trong tóc. Coi ảnh thôi mà mũi như muốn hít hà hương
va-ni thơm ngậy ấy. Lát sau, tài khoản Facebook nó bật màu xanh, tôi bay vào hỏi
ngay.
“Chuẩn bị cúng giao thừa chưa?”
“Dạ rồi.
Như mọi năm rứa ni chứ nhà em không mần chi nhiều.”
Tôi ngừng
vài giây suy nghĩ mà chưa nghĩ ra mình nên nói gì. Có tín hiệu Bé Ti đang nhập
tin nhắn.
“Anh Tộp
không đi đón giao thừa à?”
“Đi mô
hè? Đang đón nì.”
“Ý em
là đi chơi á. Anh Tộp không đi chơi hay răng mà chừ còn online nói chuyện?”
“Không.
Đón giao thừa với Khe Trong thôi.”
“Xi,
anh Tộp xạo. Ưng đón với Khe Trong thì anh Tộp về bữa chừ rồi chơ mắc chi ở lại
trong nớ.”
“Tại
có việc mới ở lại chứ buồn bắt chết đây.”
Tôi gõ
dấu hai chấm và ngoặc đơn theo thói quen làm biểu tượng mặt buồn gửi cho nó,
lòng rưng rưng.
“Xí
cúng giao thừa phát trực tiếp cho cúng ké với hỉ.”
Đúng
là Bé Ti mang Khe Trong vào Sài Gòn cho tôi thật, chỉ chát chít vẩn vơ vậy thôi
mà tôi thấy nhà, thấy Tết gần cạnh hông.
“Mạng
yếu lắm, phát không được.”
“Rứa
quay phim, chụp ảnh chi cũng được. Cho chi dùng nấy.”
Nó lặn
mất gần mười phút rồi gửi liên tiếp hai bức ảnh. Khe Trong của tôi đón Tết điện
chưng sáng quắc dọc Đường Xe. Bất ngờ nhất là đèn chớp nháy xanh đỏ chỗ ngã ba
cây mít. Xưa chỗ này tối om, cây mít to cả chục đứa ôm mới hết rậm rạp phủ cả
góc đường. Chỗ nào rậm rạp là chắc chắn có ma nên buổi tối đi qua ngã ba cây
mít đứa nào cũng bặm môi cắm đầu bước. Chỉ đi nhanh chứ không được chạy vì ma
mà biết mình đang sợ là nó dí theo hù cho chết khiếp. Nhưng đó là chuyện xưa lắc
xưa lơ rồi, giờ Đường Xe được đổ bê tông, nhà mới mọc lên điện chưng ra tuốt
ngoài đường thế kia thì ma quỷ đâu ra. Cây mít lập lòe huyền ảo cứ như quán cà
phê.
“Chừ về
mở quán cà phê Cây Mít không khéo giàu to, hè?” - Tôi nói khi ý nghĩ chỉ mới xoẹt
ngang đầu và chưa kịp kết thúc.
“Dạ, chuẩn
luôn. Nghe cà phê Cây Mít là ưng rồi đỏ, nghèo cũng khó. Mà anh Tộp về mau chơ
không họ giành mất phần đó nghe.”
“Họ mô
rứa?”
“Em.”
“Ê,
không chơi hớt lỏng rứa nghe!”…
Té ra
con người đơn giản thế, hạnh phúc cũng đơn giản thế. Nới chuyện tầm phào thôi
mà vui như đứa trẻ được quà. Một đứa trẻ chưa kịp lớn chơ vơ giữa lòng thành thị.
Còn mười
lăm phút nữa là giao thừa, Bé Ti tiếp tục gửi ảnh cho tôi. Lần này nó chụp nhà
tôi, ba đang xếp chè xanh đánh lên bàn cúng ngoài hiên. Nhìn bức ảnh tôi biết
Bé Ti đã đứng ở đâu khi đưa điện thoại lên bấm. Đó là chỗ nó đã đứng dòm trăng
trong buổi tối ôn thi cúp điện bất ngờ. Đó là chỗ nó đã ngồi nghe đọc truyện
đêm khuya. Đó là chỗ nó đã ngồi khâu sợi dây cho cái mũ màu bồ quân mới một
trưa tháng Chín nắng vàng mọng rớt bên song cửa. Và đó là chỗ tôi lúc lúc nào
cũng đau đáu nhìn sang.
“Đói bụng
quá. Có chi cho ăn ké với đi.”
Câu
nói bật ra như một thói quen.
“Anh Tộp
ưa ăn chi? Chừ có bánh tét, bánh bò, mứt dừa, chè xanh đánh. Em gói rồi gởi máy
bay vô hỉ?”
“Bánh
tét đi hỉ, gói lát có thịt mỡ ở giữa đó nghe. Gửi vô mau cho bu cánh máy bay ra
Khe Trong với.”
“Haha.
Kiểu ni là phải gửi trực thăng nì, để chút hắn đậu trên nóc nhà bờ anh Tộp nhảy
xuống hỉ?”
Nó gửi
cho tôi cái ảnh máy bay giấy mà hồi nhỏ tụi tôi hay xếp chơi. Tôi cười toét miệng
khi mắt vẫn còn cay. Chao là hạnh phúc, nó mang tôi từ Sài Gòn về lại Khe Trong
thật rồi. Để tôi phụ ba đốt trầm, phụ mạ cắt bánh tét chờ giao thừa chạy ra hái
lộc.
“Đùng!
Đùng!” Những phát pháo hoa đầu tiên được bắn lên bên con sông Sài Gòn lộng lẫy.
Tôi giật mình sực tỉnh con mê về với hiện thực đang bủa vây quanh mình, rằng
tôi vẫn ngồi đây lạc lõng giữa phố phường xúng xính đèn hoa. Sao phải vậy? Sao
phải tự nhốt mình trong mười lăm mét vuông này? Sao để hai thân già thui thủi
cúng giao thừa quạnh hiu lặng lẽ? Máy bay trực thăng trong câu chuyện tào lao của
tôi và Bé Ti không mang thân tôi về Khe Trong được, nhưng tôi, một người bằng
xương bằng thịt đang sống sờ sờ có thể tự mua vé cho mình, chẳng phải vậy sao? Đôi
chân này là của tôi, bước đi được thì cũng bước về được, chẳng phải vậy sao?
Khe Trong của tôi, và ba, và mạ, và Bé Ti vẫn ở đó, vẫn đêm đêm nghe tiếng giun
tiếng dế tỉ tê, nghe tiếng gió đại ngàn vi vút trầm ca trên đọt bạch đàn, và
khi Tết đến vẫn để phần tôi cái bánh bò bánh tét ngon nhất. Tôi còn nấn ná gì
mà chưa chịu về?
Tôi ngủ
thiếp đi bên chiếc điện thoại, mơ màng thấy những mùa Tết cũ và cả mùa Tết mới
Khe Trong chập chờn ánh điện xanh xanh đỏ đỏ. Tôi ngủ thiếp đi trong quyết tâm
mãnh liệt, ngày mai tôi về. Tôi sẽ leo lên dốc Trụ Điện bằng những bước chân
không mệt mỏi của mình. Tôi sẽ cho gió núi mưa phùn táp vào người để phủi sạch
bụi đường trường. Tôi sẽ cúi hôn Khe Trong như đứa con tha phương lữ thứ cúi
hôn hòn đất mẹ trong một chiều chạm bóng quê hương. Tôi sẽ…
Tôi tỉnh
giấc, ánh sáng từ khuôn cửa sổ chiếu hắt vào làm hai mắt nheo lại một hồi lâu mới
mở ra được. Tôi chẳng bật điện thoại xem giờ như mọi khi mà đứng phắt dậy với
tay lấy cái ba lô. Nhìn quanh nhìn quất cũng chẳng có thứ gì cần cho vào ba lô
ngoài mấy bộ đồ thường mặc, ví tiền, điện thoại, giấy tờ tùy thân và cái áo
khoác dày nhất mà trời Sài Gòn chẳng bao giờ cần dùng đến. Tôi kiểm tra lại chốt
cửa sổ, khóa cổ con xe máy rút chìa khóa đút vào ba lô rồi cầm ổ khóa chính ra
khỏi phòng. Từ chỗ tôi đến ga Sài Gòn là nhanh nhất, tôi lao đi không cần nghĩ
ngợi.
Ga Sài
Gòn đón tôi bằng khung cảnh tấp nập khẩn trương khiến lòng tôi như ai đang cào
đang xé. Nếu chỉ còn mình tôi là hành khách trong nhà ga hôm ấy tôi cũng không
than thở cuộc đời mà ngược lại, miễn tàu đưa tôi về ga Huế. Rất tiếc tôi không
phải là người duy nhất về quê muộn, xung quanh tôi cả trăm người tay xách nách
mang dắt díu nhau trên các băng ghế trong phòng chờ. Họ không vội vàng khẩn
trương như tôi vì họ nắm chắc trong tay tấm vé về nơi họ muốn về. Hai chân tôi
tự nhiên cuống lên. Và tôi chạy. Nếu đến cả tấm vé cuối cùng cũng không dành
cho tôi thì chiều hôm ấy, trên sân ga cuộc đời có kẻ lữ hành ngồi khóc thương kỉ
niệm, lỡ một chuyến tàu thời gian.
Tôi
cúi mặt vào sát cửa kính nói với chị bán vé cho tôi một vé đi Huế. Mồ hôi vã ra
không biết là vì chạy hay vì hồi hộp. Chị bán vé đang làm công việc của mình,
tôi nhìn từng cái nhấp chuột như đang chờ đợi một phán quyết sống. Cái lắc đầu
lúc này với tôi là hình phạt cao nhất cho đứa con bất hiếu Tết chưa về với mạ với
Khe Trong và tôi sợ nó như kẻ tử tù nhìn thấy sợi dây treo cổ định mệnh. Sợ
quá, tôi nói luôn với chị bán vé cho tôi đi tàu nào cũng được, giờ nào cũng được,
ghế chính hay ghế phụ gì cũng được miễn là tôi có thể lên tàu trong hôm nay. Chị
rà thêm một lượt rồi gật đầu, tàu SE10 khởi hành lúc 15:30’ dự kiến đến Huế
14:15’. Hai mươi hai tiếng bốn lăm phút nữa tôi sẽ đặt chân xuống ga Huế, nếu
tàu không trễ phút nào. Trong phút chốc tôi lạc khỏi quỹ đạo Trái Đất thành người
không trọng lượng bay lâng lâng đâu đó ngoài kia. Cuộc đời đẹp đến thế sao!
Tôi kẹp
ly mì tôm kiếm một ghế thoáng thoáng để an tọa. Lúc này đồng hồ chỉ 9:45’, còn
đến gần sáu tiếng nữa mới được lên tàu, tàu có thể về đến Huế trễ nhưng chắc chắn
sẽ khởi hành đúng giờ vì đây là ga khởi đầu của hành trình Nam - Bắc này. Tôi
ngả người trên băng ghế, gối ba lô lên đầu nằm nghỉ. Ăn ly mì tôm xong khắc chế
được cơn đói ăn thì đến lượt cơn đói ngủ hành hạ. Đúng là xấu máu đói. Trong biển
người xa lạ này liệu có ai đánh thức tôi dậy để kịp chuyến tàu về Khe Trong? Chắc
chắn là chẳng có ai nên tôi quyết không nhắm mắt lại. Tôi nhìn ra ngoài nhà ga,
nhìn xa xa ra bãi đậu taxi và những dãy nhà phía trước. Đây là Sài Gòn, miền đất
hứa của tôi mười năm trước. Và giờ, khi tôi gửi hết hồn mình về Khe Trong thì
Sài Gòn vẫn đẹp, đẹp như ngày đầu tôi đặt chân tới. Ít ra tôi đã cùng hơn tám
triệu người khác, và cùng cuộc đời vẽ nên một Sài Gòn để nhớ. Nắng Sài Gòn, mưa
Sài Gòn, những giờ cao điểm kẹt xe hít đầy phổi khói bụi Sài Gòn đều là kỉ niệm.
Và cả em nữa. Từ hôm tạm biệt em ở sân bay Tân Sơn Nhất tôi và em chưa hề nhắn
cho nhau một câu nào. Tôi tự nhủ: thôi để em tập trung cho việc của em. Là tôi
hèn nhát biện hộ cho mình vì tôi không đủ dũng cảm để nói với em điều cần nói.
Càng nghĩ càng thấy mình tồi tệ. Lẽ nào tôi coi như em biến mất, lẽ nào tôi coi
em là người xa lạ, lẽ nào tôi không nói với em được lời xin lỗi? Sài Gòn, với
tôi, sẽ luôn đặc biệt và đáng nhớ, tôi trân trọng những gì mình có được ở đây.
Và em, với tôi, cũng thế.
Tôi cầm
điện thoại lên, mở messenger, trượt xuống tìm tên em. Tôi nhập tin nhắn một
cách dứt khoát và liên tục. Trong một phút không đắn đo, tôi móc ruột gan mình
ra nói cho hết những điều ủ trong lòng đã thành men. Tôi bấm nhanh như gà mổ
thóc rồi nhấn nút “gửi” mà không cần đọc lại. Trút được gánh chì trong cái dạ
dày gần bội thực vì những suy tư cảm giác sảng khoái y như hồi nhỏ chạy lông
bông suốt buổi chiều rồi dội lên người mấy gàu nước lẫn phèn tắm một phát hết sạch
bức rức xót xáy. Suốt mấy tiếng đồng hồ tôi ngắm phố phường trong cảm giác thư
thái lâng lâng. Mọi thứ in vào mắt như thể tôi sắp vẫy chào lần cuối một nơi đầy
kỉ niệm dù bản thân chưa có câu trả lời cụ thể nào cho tương lai. Tôi đơn giản là
hôm nay phải về, thế thôi.
Loa
phóng thanh giòn giã mời hành khách có vé lên tàu SE10 về đường ray số 1. Tôi đứng
phắt dậy cùng mấy chục người khác trên các băng ghế xách ba lô tiến về sân ga.
Tôi đi nhanh vậy mà chưa phải là người đầu tiên có mặt trên hàng ghế của mình.
Một chị trạc tuổi chị Bé đi cùng đứa con nhỏ ngồi cùng băng ghế với tôi đã lên
tàu ổn định chỗ ngồi. Ghế chị sát ngay cửa sổ, ghế tôi cạnh lối đi. Ngược với
tôi, chị mang rất nhiều hành lý. Cái túi du lịch bạc phếch cỡ lớn gác vào kệ để
hành lý trên đầu chúng tôi. Cái ba lô to gấp rưỡi ba lô tôi chị để dưới chân,
trên sàn tàu. Cái thùng xốp dán băng keo rất cẩn thận cũng để trên sàn tàu. Và
một túi nylon lớn treo nơi cửa sổ. Bấy nhiêu có lẽ là bình thường cho một chuyến
đi dài, xung quanh tôi hầu như ai cũng lỉnh kỉnh như thế. Chị mỉm cười chào tôi
rồi bế đứa bé đặt lên chân mình trả lại chỗ cho tôi. Tôi cho ba lô xuống dưới
chân, đẩy nó vào dưới ghế rồi ngồi mé mé để một khoảng trống vừa đủ cho mẹ con
chị ngồi được thoải mái.
- Tàu
gần chạy chưa má?
- Gần
rồi. Mười phút nữa thôi.
- Mười
phút là lâu chừng nào hả má?
- Lâu
bằng Cô Ca uống hết ly sữa đó.
- Dzậy
mà má nói gần rồi. - Cô bé xị mặt xuống nũng nịu chu miệng lại làm hai má như
phúng phính đẹp như một thiên thần.
Chị cười,
quàng tay qua ôm lấy bé.
- Mình
đi đâu dzậy má?
- Quảng
Nôm. Cô Ca về thăm ông nội nè, thăm bà ngoại nè. Cô Ca thích không?
- Sao
anh Hai với ba không về? - Cô bé không trả lời câu hỏi của chị mà hỏi lại vẻ
đăm chiêu dữ lắm.
- Anh
Hai với ba ở nhà cho bầy cá ăn chứ mình đi hết thì cá đói ai cho ăn? Cô Ca có
thương bầy cá không?...
Tôi
thích thú ngồi nghe hai mẹ con chị trò chuyện. Phút sau, thấy yên ắng tôi nhìn
sang cô bé đã ngủ say trong lòng mẹ. Không biết chị xa quê lâu chưa mà vẫn nói
giọng Quảng đặc sệt, nghe chân chất gần gũi vô cùng dù tôi không phải là người
Quảng. Nhiều năm trước, trên những chuyến tàu như thế này Chị Bé của tôi dắt
con về ngoại ăn Tết. Năm nào không thu xếp được thì chỉ hai mẹ con được về và
cũng tay xách nách mang gồng gánh đủ thứ y như chị. Hai thằng cháu của tôi có lẽ
cũng ngơ ngác hỏi mẹ những câu tương tự.
- Em
đi lồm hay đi học? - Chị bắt chuyện, thân mật hỏi.
- Dạ
làm rồi chị.
- Người
Huế hả?
Tôi “dạ”
một tiếng khe khẽ rồi buột miệng:
- Chị
với bé đi đường xa ri vất vả hè.
Như chạm
phải tâm tư, chị trút cõi lòng kể tôi nghe thật nhiều. Hai vợ chồng chị cùng
quê Quảng Nam, chị ở Tam Kỳ anh ở Núi Thành cách nhau mấy chục cây số. Hồi nhỏ ở
quê làm gì đã biết nhau. Trời cột anh với chị lại với nhau khi chị đang phụ bán
trong một quán cơm bình dân còn anh là khách quen ở đó. Chỉ vì cái giọng Quảng
mà quen nhau rồi thành vợ người ta lúc nào chẳng hay. Sinh đứa đầu xong anh chị
mất kiểm soát tài chính. Tiền công hai vợ chồng cộng lại chẳng bù nổi tiền bỉm
sữa, tiền ăn uống, tiền gửi trẻ, tiền nhà… Thứ này một tý, thứ kia một tẹo khiến
chị phải làm liều. Chị mở quán ăn của riêng mình. Đầu tắt mặt tối chừng đâu một
năm thấy quán ăn nên làm ra, anh bỏ việc trong nhà máy phụ vợ bán cơm. Thợ phụ
dần dà thành thợ chính. Chị sinh đứa thứ hai, vất vả thêm bận nữa thì hai vợ chồng
mua được căn nhà nho nhỏ đứng tên chính chủ, chấm dứt quãng đời ở nhà mướn. Tết
đầu tiên “an cư” gia đình chị định không về quê vì eo hẹp chuyện tiền nong, khoản
tiền vay mua nhà còn đó và lãi hằng tháng cứ đến lặp lặp. Gần Tết bác gái bị té
gãy chân. Mưa miền Trung, mưa của đất Quảng cũng thâm trầm không kém cạnh mưa
Huế là bao. Bác gái đi rẫy về trượt chân té trong sân giờ đang bó bột. Chị khóc
nhiều đêm liền đến hôm nay chị mới lên tàu. Tính nát óc cũng không thể cả nhà bốn
người dắt díu nhau về quê ăn Tết như mọi năm nên đành chia làm hai, một nửa Sài
Gòn một nửa lên đường về Quảng. Ở chẳng đành lòng về lại tủi thân. Nhìn cảnh
hai cha con đưa mẹ và em gái lên tàu rồi quay lưng về, Tết này thui thủi hai
người trong căn nhà mới chị không tủi sao được. Giọng chị chùng xuống, bao
nhiêu dồn nén bao nhiêu nghẹn ngào đang chực trào nơi khóe mi. Tôi nói với chị
điều mà mạ thường nói trong những ngày Tết.
- Đầu
năm đầu tháng phải vui cả năm mới vui vẻ may mắn được chị nờ. Chị đừng nghĩ nhiều
mà mệt người. Ngó rứa chơ Tết hắn qua cái vèo. Nhanh lắm.
Tàu
qua một khúc núi chập chùng, dằn mạnh hơn lúc nãy. Cô bé ú ớ sải chân ra đạp
vào người tôi, đế giày dính lên áo tôi. Chị kéo chân bé, ôm gọn lại. Tôi sốt sắng.
-
Không chi mô, chị cứ để cho cháu tự nhiên. Ngồi tàu cả ngày bụi cũng bám đầy
thôi chị ơi. Con nít ngủ phải sải chân sải cẳng, tội cháu đi tàu ri chật chội.
Chị cởi
đôi giày nơi chân bé rồi cho bé sải chân thoải mái.
- Nhà
em có đông anh chị em không?
- Hai
ni à. Em với chị gái. Chị gái em chắc cỡ tầm tuổi chị á, cũng hai đứa rồi. Hồi
tê chị gái em cũng mần ăn trong Sài Gòn mà chừ thì ra Đà Nẵng ở rồi.
- Chừ
nhà chỉ còn hai ông bà già với nhau thôi hả?
Chị
nói giọng Quảng, chữ “hai” của chị nghe ngồ ngộ vui tai. Tôi lại “dạ” khẽ.
- Ngó
được thì về làng lấy vợ cho ông bà già đỡ tủi. Chừ còn trẻ trẻ thì không chi,
vài năm nữa mà vậy buồn lắm đó em. Như mẹ chị đó…
Chị tiếp
tục kể. Chuyện của hơn hai chục năm trước lúc chị rời xóm núi nghèo xơ nghèo
xác vô Sài Gòn ở đợ phụ việc trong quán cơm. Quê nghèo chẳng có gì ngoài nương
với rẫy, khe với suối chập chùng. Trường xa nhà, mùa đông đi lại vất vả vô cùng
nên mấy chị em đều nghỉ học sớm. Chị là con đầu, tiên phong Nam tiến để đổi đời
khi mới mười lăm tuổi. Chị kể lại rành rọt cái Tết đầu tiên chị về quê trên
chuyến tàu Nam- Bắc ghé ga Tam Kỳ như hôm nay, dường như chưa chi tiết nào bị kí
ức mới ghi đè lên trong trí nhớ.
Chị,
Chị Bé và có khi cả tôi nữa đâu ngờ rằng một lần đi là đi mãi như thế, là xa
mãi như thế. Chúng tôi, cùng hàng nghìn người nhập cư vào Sài Gòn khác, mỗi người
có một hoàn cảnh, một chí hướng riêng nhưng suy cho cùng là đều vì những điều tốt
đẹp. Ngày đi, chị đâu nghĩ đến lúc mẹ già yếu mà không muốn rời đất Quảng. Bác
có vào Sài Gòn thì chỉ năm bữa nửa tháng là nhớ làng, nhớ nương, nhớ suối,
không về được là héo hon như cây dại trên rừng bị bứng bỏ chậu làm cảnh chưng
trong nhà. Và chị càng không ngờ mải miết bôn ba với đời rồi mười năm, hai mươi
năm xa quê qua nhanh đến vậy. Cứ ngỡ đây là con tàu ấy, trong cái Tết háo hức ấy
đang xình xịch tiến về ga Tam Kỳ. Tất cả đều mới nguyên, vậy mà đã hai chục
năm.
Tôi
nghe chị kể, nuốt từng từ vào đầu không sót tí nào kể cả tiếng thở dài. Tôi ngồi
trơ như phỗng, tôi biết nói gì khi câu chuyện đã động đến sâu thẳm tâm tư mình.
Thấy tôi im lặng, chị dừng câu chuyện tựa đầu vào mép cửa sổ lim dim ngủ. “Về
quê lấy vợ” - tôi giật mình, từng nấy tuổi đầu rồi chuyện vợ con chắc chắn tôi
đã nghĩ nhiều nhưng chưa bao giờ nghĩ đến điều chị vừa nói.
Cuối
toa có chiếc ghế phụ bỏ không, tôi đến xía ngay rồi kê ghế ngồi sát băng ghế
bên kia lối đi để mẹ con chị nằm ngồi được thoải mái. Băng ghế này là của một
bác tuổi tầm ngoài sáu mươi một chút và một chú khoảng trên dưới năm mươi. Thấy
hai người cởi mở chuyện trò tôi mạo muội xin nhập hội. “Ăn miếng mứt gừng cho ấm
bụng cháu nì.” Tôi như chuột sa hũ gạo, không phải vì lát mứt gừng cay ran cả mặt
ấy mà là vì cái giọng quê chậm rãi nằng nặng tôi nghe từ thuở lọt lòng. Ba con
người xa lạ lần đầu gặp nhau mà thân tình như tri kỉ. Chúng tôi nói về Tết và
quê. Ai cũng có Tết và ai cũng có quê nên nói mãi đến mai đến mốt chắc không hết
chuyện.
-
Không về thì không được, người ta nói này nói nọ chứ về có mấy bữa rồi đi lại mệt
bỏ mẹ. Tết nhất đi lại đắt đỏ, người không là người. Mai mốt vô lại họ còn nhét
như nhét heo.
Tôi đọc
được sự bất mãn trong giọng nói cay cú của chú và cả trong mắt chú. Nếu tôi coi
tấm vé lên tàu này là một ân huệ thì với chú nó chẳng là gì ngoài một trách nhiệm
và một cuộc hành xác. Tôi muốn nói điều gì đó với chú mà không nói ra được. Bác
thì gật gù đồng ý rằng người vô sẽ đông hơn người ra vì người ta về quê xong dắt
theo cháu chắt, em út mình vô Sài Gòn. Dòng chảy người lao động vẫn nườm nượp đổ
về Sài Gòn. Lát sau, bác trầm ngâm hẳn.
- Chú
nói phải, Tết nhất có mấy bữa à. Mình đi ra đi vô ri thì cực thiệt. Nhưng mình
chỉ cực thân còn người ở lại quê mới tội.
Tôi hơi
bất ngờ chưa hiểu được ý bác. Chú cũng vậy, tôi thấy chú nhìn bác vẻ băn khoăn
nhưng chúng tôi chưa kịp hỏi thì đã nhận được câu trả lời.
- Mình
thì về ào ào ộn ộn có mấy bữa rồi mình đi chơ họ ở nhà nôn nao chuẩn bị Tết gần
cả tháng trời. Mình vô lại Sài Gòn thì việc tới tay rẻng mô mà nghĩ ngợi nhưng
Giêng hai quê tui mưa lạnh rảnh rang, họ nhìn cảnh nhà trống trải chắc họ buồn
thúi ruột.
Mắt
tôi tự nhiên thấy cay phải đưa tay dụi. Điều bác nói quá mới với tôi và nó như
làn khói bếp xông thẳng vào mũi vào mắt tôi cay xè. Gần chục cái Tết qua, tôi
chưa bao giờ thử hình dung ba mạ ở nhà sẽ thế nào? Có thoáng chút buồn chút trống
trải nào không khi Tết xong chị em tôi lũ lượt kéo nhau đi? Tết nào cũng rộn
ràng có mấy hôm rồi ngôi nhà trở lại lặng thinh yên ắng. Ui chao, có một khoảng
trống mênh mông tôi để lại sau lưng mà chưa bao giờ tôi biết tới, cho đến hôm
nay. Tết xong công việc bận rộn tôi thường ít gọi về nhà. Mạ Vui của tôi luôn
nói oang oang cười hả hả trong điện thoại, mạ vui vẻ như cái tên của mạ vì những
phút chạnh lòng trống trải mạ giấu hết vào trong. Mạ chưa từng để tôi biết mạ
buồn nhưng giờ thì tôi chắc chắn mạ đã nhớ chúng tôi, đã thấy quạnh hiu nhường
nào khi ngôi nhà không một bóng con trẻ. Và ba cũng vậy.
Cứ thế,
con tàu dắt tôi qua không biết bao nhiêu là Tết là xuân và không biết bao nhiêu
nỗi đời hư hao. Có ấm cúng, có háo hức, có thi vị và cũng có khổ tâm bất mãn.
Bi kịch nhất là bất mãn với quá khứ của chính mình.
- Tết
hồi xưa mới ra Tết, mới vui. Bây giờ về quê thấy Tết nó nhạt nhẽo làm sao ấy.
Chú và
tôi đồng một tâm sự. Tôi cảm thấy điều này nhiều năm trước. Năm nào về cũng thấy
chán hơn năm trước. Những ngày xưa lơ xưa lắc của tôi sao mà vui sao mà háo hức
sao mà chờ đợi đến thế. Càng lớn về quê chỉ thấy nỗi buồn nó cũng lớn theo
mình.
- Con cũng
thấy rứa. Hồi ni Tết ở quê thấy khác khác, buồn buồn răng á. Tết không thiếu thứ
chi hết mà không vui như hồi xưa.
Chú thở
dài, buông một câu nặng trĩu.
- Bà
con ở quê cũng không còn như xưa, anh em họ hàng ruột thịt cả mà nhiều khi nhạt
nhẽo như người dưng.
Chú
nói rồi ngả người ra phía sau dựa đầu vào thành ghế. Nghỉ một quãng chẳng ai
nói gì, chỉ có tiếng bánh sắt nghiến vào đường ray xình xịch vang lên đều đặn.
Bên ngoài màn đêm đã đen đặc, sương xuống dày trên những vùng đồi núi chúng tôi
vừa qua, tiếng gió quật vào tấm chắn cửa sổ vù vù. Bác đằng hắng một tiếng rồi
chậm rãi.
- Tui
cũng từng như chú, thấy người thân lạnh nhạt khách sáo với mình. Nhưng nói đi
cũng phải nói lại, người quê tui họ hay ngại lắm. Họ nghe tiếng Sài Gòn là cứ
nghĩ mình sang, thân mật quá họ sợ sỗ sàng rồi mình nghĩ họ thấy sang bắt
quàng. Họ khách sáo xí thì mình thấy họ xa cách. Thiệt tình, tui tha phương
ngót nghét bốn chục năm rồi mà chừ về thấy cảnh quê là cứ tưởng mới hôm qua hôm
tê, đã rứa còn mong ai cũng như hồi trước xề xòa thân mật.
Bác
nói rõ rành, từng câu từng chữ khắc vào lòng tôi sâu ngoáy. May cho tôi vì nếu
tôi không được nghe tâm sự chân tình của bác vào đúng thời điểm này thì biết
đâu tôi phải mất nửa đời tha hương mới nghiệm ra được, khi tôi ở bên kia dốc cuộc
đời như bác bây giờ. Bác thở dài khẽ lắc đầu nhẹ.
- Tết
nhứt cũng in rứa. Kiểu chi vẫn không thấy hắn giống hồi nớ. Cả miếng mứt gừng
chừ ăn hắn cũng không cay giống hồi nớ. Rứa mới khổ. Mình đi chừng nớ năm, mình
thay đổi nhiều lắm mà mình không biết đó thôi. Họ còn nhớ mặt mình là mờn rồi
chơ mình mần răng mà đòi cái chi cũng phải giống trước tê được. Cả xã hội thay
đổi lận chơ phải chi riêng quê mình.
Chú ngồi
im. Tôi cũng ngồi im để những lời mộc mạc mà sâu sắc thấm thía ấy chảy vào tai,
vào hồn, thấm đến nơi xa nhất của lòng mình như mỗi khi đọc được một trang viết
đẹp.
- Tui
nhớ có năm tui về, đường làng đổ bê tông sạch sẽ ngon lành rứa mà tui lại không
ưng, tui cứ thấy nó kệch cỡm rồi cứ như ai cướp mất một phần hồn của mình rứa.
Người ta mong đường đổ bê tông không hết mà tui thì cứ nhớ cái đường làng cũ.
Hay ho chi mô, đường sỏi lổm chổm, cỏ gà hai bên mọc tốt lòa xòa choáng cả lối.
Rứa mới nói, mình cứ thấy cái chi kỉ niệm hắn cũng đẹp rồi ôm cái đẹp nớ mà buồn.
Bác và
chú còn nói thêm gì với nhau nữa tôi chẳng nghe rõ, vì đến đó người tôi bỗng đơ
ra, bác đã chạm đến đoạn mã bí ẩn tôi không giải được nên đem cất vào nơi xa nhất
của đáy tim mình. Kỉ niệm! Kỉ niệm tựa chiếc kén được dệt vụng về mà bền chặt.
Tôi là con ấu trùng mãi không chịu lớn, dù đôi cánh đã đủ mạnh, dù đã bị đạp ra
khỏi kén tôi vẫn muốn chui vào góc tối xù xì ấy thêm một lần, thêm nhiều lần nữa.
Kỉ niệm đẹp quá, nó đã nhốt tôi chừng đó năm rồi.
Tôi
đâu còn là thằng Tộp lếu láo hồi xưa mà tôi lại chăm chăm kỳ vọng Bé Ti mãi là
con nhỏ hàng xóm ngây thơ đến tội nghiệp như khi nó rưng rưng tưởng mình là
thiên sứ đom đóm. Như khi nó bu trên chạc ba cây khế vợt bắt con bươm bướm màu
thanh thiên tuyệt đẹp. Như khi nó mang tô chè đậu đỏ nước cốt dừa sóng sánh
thơm lựng lên cho tôi trước ngày thi. Như khi nó thẹn thùng trong lần đầu tiên
mặc áo dài hai má ửng màu nắng ấy… Tôi có quyền gì mà ngăn nó đừng lớn. Tôi có
quyền gì mà vui mà buồn, mà thích hay không thích sự thay đổi hẳn nhiên của nó
khi trưởng thành, trong khi tôi cũng vậy. Có Tết tôi về thấy nó hớt tóc mái - kiểu
tóc đang mốt của tụi con gái thời điểm đó - lòng tôi chợt trống trải như thể vừa
mất mát thứ gì đó lớn lắm. Cả Tết tôi bổi hồi bồi hồi. Bạn bè nó đến chơi nườm
nượp, nó không còn lẽo đẽo sau lưng tôi như hồi trước nữa. Những Tết sau đó, nó
nhuộm tóc, nó đi giày cao gót, nó mặc đồ tân thời… thứ gì cũng làm tôi chán
ghét, cáu kỉnh. Chị Bé cũng ăn mặc tân thời cũng nhuộm tóc như nó, và có lần
tôi chê Chị Bé không tiếc lời. Lúc ấy tôi chỉ ước tôi có thể quăng hết mất câu
khó nghe đó qua bên kia hàng chè tàu, vào phòng nó. Nhưng để làm gì chứ khi nó
không còn quan tâm nhiều đến sự cáu kỉnh của tôi. Tôi nổi cáu luôn với bản thân
mình.
Nhưng
tôi vẫn thỉnh thoảng chuyện trò bâng quơ với nó, cho đến cái ngày nó khiến tôi
hụt hẫng tái tê. Ngày mà tôi không còn thấy màu trời xanh trong trẻo, không còn
thấy Khe Trong vỗ về mát rượi tâm hồn. Ngày nó dẫn bạn trai về nhà chơi. Mấy đứa
con nít trong xóm tóm tay tôi kéo đến chỗ hàng rào chè tàu len lén nhìn sang. Tụi
nó chỉ vào thằng con trai đang ngồi đối diện Bé Ti rồi nói với tôi rằng “Bồ chị
Ti tề. Anh nớ đeo kính chắc học giỏi lắm anh Tộp hì?” Tôi cục cằn trả lời chúng
“Chơi game nơi máy tính nhiều quá bờ cận đó chơ giỏi chi mà giỏi.” Tụi nó chưng
hửng nhìn tôi ngơ ngác. Với tôi hồi nhỏ và với tụi nhỏ bây giờ thì ai đeo kính
cũng là con nhà giàu học giỏi vì xưa giờ cả cái xóm Khe Trong này chẳng có đứa
nào mang kính cận. Tôi nhìn vẻ thư sinh hiền lành điềm đạm của nó mà thấy ghét,
chỉ ưa đấm cho nó một phát. Là nghĩ thôi chứ tôi không đủ can đảm để dựng cái
thằng lì lợm háu thắng trong tôi dậy làm điều ấy. Nó đến chơi với Bé Ti mắc mớ
gì tới tôi. Ghét nó không được tôi đâm ra ghét Bé Ti. “Ờ, cái đồ mê trai.” - đó
chính xác là những gì tôi đã nghĩ về nó, tôi xem nó như một đứa con nít ranh
chưa lớn đã đua đòi yêu đương dù nó đã hơn hai mươi tuổi. Tôi cần gì lý lẽ, lý
lẽ trên đời chỉ là tương đối khi trong mắt tôi nó chưa lớn, và tôi cũng vậy.
Tôi hầu như chẳng nói câu nào với nó suốt những năm sau đó, cho đến hôm kia,
khi tôi như con tàu mồ côi bến đỗ, bơ vơ.
Sực nhớ
một chuyện, tôi lôi điện thoại ra xem. Chẳng có tí sóng nào, tàu đang giữa núi.
Tôi tiếp tục chuyện trò nhưng năm, bảy giây tôi liếc điện thoại một lần. Phải
ba mươi phút sau, cột 3G sóng nhảy lên nhảy xuống như múa trước mắt tôi. Tôi
vào Facebook xem lại tất cả ảnh trong album “Tất niên” của thằng Út để kiểm tra
trí nhớ của mình. Trí nhớ tôi còn tốt chán, vả lại làm sao có thể nhầm được khi
đối tượng là đứa mình ghét cay ghét đắng. Cái thằng đeo kính cận ấy năm nay biến
đâu mất chẳng xuất hiện trong ảnh. Tôi cam đoan nó sẽ không bao giờ bỏ lỡ dịp tốt
như tất niên để tranh thủ “làm rể” sớm. Nhà nó ở thị trấn Phú Bài chứ xa xôi gì
đâu. Dù nhác mấy thì cũng giả bộ một hôm làm siêng về phụ nhà Bé Ti một tay rồi
tranh thủ rút ngắn khoảng cách. Năm ngoái tôi đã thấy nó lăng xăng cả buổi với
ba Bé Ti, nó ngồi cùng mâm cùng chiếu với hai thằng em, ba đứa nó vui vẻ cụng
ly rồi chụp ảnh kỉ niệm bữa cơm tất niên. Thiệt tình, ngu chi mà vắng mặt.
Tôi
vào mục ảnh trên dòng thời gian xem, tôi trượt thật nhanh sợ tàu qua khỏi vùng
đồng bằng lại chập chờn sóng. Cả năm vừa rồi Bé Ti chỉ đăng mấy tấm ảnh mà tấm
nào cũng chỉ mình nó. Tính ra là vắng bóng cũng cả năm nay rồi “hay là tụi nó…”
tôi nghĩ đến đó thì tự dằn mình “không thể như rứa được…” “mà biết mô rứa thiệt…”
Biết mô Bé Ti cũng vừa qua một chuyện tình cảm mơ hồ ảo tưởng như tôi.
Tôi
nghĩ một hồi rồi thấy câu trả lời không còn quan trọng. Tôi đã giải được đoạn
mã mà suốt nhiều năm tôi vứt không được, ôm thì nặng bụng. Đấy mới là điều đáng
nói, là bước ngoặt của cuộc đời tôi. Ngoài trăng, ngoài gió, ngoài nắng ra thì chẳng
có gì là giống ngày xưa cả. Làm chi có ai mặc tấm áo mới từ năm này sang năm
khác mà nó vẫn mới nguyên đâu chứ. Tấm áo năm xưa tôi bo bo giữ lấy đã không
còn vừa vặn. Tôi sẽ sắm cho mình tấm áo mới vừa vặn hơn, hợp thời hơn vì thời trang
là cuộc sống. Tôi bỏ quên điều này bấy lâu.
Trời
đã về khuya, cả đoàn tàu lim dim ngủ chỉ còn những vòng quay xình xịch vang đều
đặn trong đêm. Tôi kéo phéc mơ tuya chiếc áo khoác lên quá cổ rồi tìm chỗ ngả
lưng. Tôi cũng nhắm nghiền mắt lim dim như họ nhưng tôi không ngủ, tôi thức
cùng kỉ niệm. Tôi cần dọn dẹp căn phòng nhỏ của tâm hồn mình. Tôi xem lại hình
hài từng thứ một rồi xếp gọn gàng cho vào két sắt khóa trái cẩn thận đem cất.
Tôi sẽ thôi chất kỉ niệm bừa bãi trong phòng vì tôi cần chỗ cho những thứ mới
dù đồ mới tôi dùng chưa quen và có thể không như mong đợi. Tôi sẽ phết cho căn
phòng tâm hồn mình một lớp keo đàn hồi thứ thiệt, khi cần nó có thể co bên này
giãn bên kia. Để làm chi? Để thích nghi và chấp nhận như một người trưởng thành
trọn vẹn.
***
Trời
đã sáng rõ, sương mỏng tan dần. Những vạt nắng đầu tiên chạy dài trên mặt biển
trong làn hơi lạnh trong khiết từ mặt nước bay lên. Cuối tầm mắt, chỗ đường
ranh giới giữa trời và biển, một quầng đỏ rực rỡ đang nhô cao dần. Tôi nghe mùi
của biển, đó là mùi tanh nhẹ hòa trong không khí, đặc trưng của những vùng biển
tôi đã ghé qua. Cả đoàn tàu thức giấc, tiếng xì xào nói chuyện mỗi lúc một nhiều.
Hành trình của tôi đã được hơn một nửa. Người đi lại giữa các hàng ghế đông dần
nên tôi quay lại chỗ của mình. Mẹ con chị vừa dậy, cô bé gần như ngủ suốt từ
lúc khởi hành nên giờ mặt mày tươi tỉnh. Chị cũng vậy, nét mặt đỡ ưu tư, quầng
mắt đỡ thâm đi nhiều. Còn tầm hai tiếng nữa là tàu ghé ga Tam Kỳ nên mẹ con chị
sửa soạn xuống tàu.
Ga Tam
Kỳ khuất dần sau khuôn cửa. Chẳng có khách nào lên tàu điền vào ghế của mẹ con
chị thành ra một mình tôi bao luôn hai ghế. Tôi nhích người sang tựa đầu vào cửa
sổ ngó nghiêng. Quảng Nam quê chị cảnh cũng gần với quê tôi. Cũng là những thửa
ruộng được bắt bờ vuông vắn mạ đã nhú, màu trắng sữa của hạt mầm lẫn trên nền đất
nâu. Vụ đông xuân việc gieo xạ thường hoàn thành trước Tết, ruộng nhà tôi mạ chắc
cũng đang nảy mầm như thế. Nhìn mấy con nộm đuổi gà đuổi vịt dựng ở hai đầu ruộng
tôi chợt cười. Chiếc áo cũ rách luồn qua que nè để hai tay áo căng ra hai bên
thành hình người giang tay đầu đội nón rách ấy đã từng làm tôi tè bậy trong quần.
Hôm đó tôi mải chơi bên nhà Cầy Sen tối mịt tối mùng mới về. Ngang qua ruộng,
cái nón trắng lờ mờ và cái bao nylon lộng gió bay soàn soạt ấy cứ dí lấy tôi.
Gió càng mạnh, tiếng soàn soạt càng to làm tôi vừa đi vừa mếu. Đáng sợ vậy mà
không phải lúc nào cũng đuổi được đám gia cầm phá hoại.
Bác từ
băng ghế bên kia sang ngồi cùng tôi, tranh thủ nhường chỗ cho chú nghỉ lưng.
Tàu đã về đến Đà Nẵng, một trăm cây số nữa thôi là chúng tôi cán đích rồi nhưng
hành trình của chú thì vẫn còn xa lắm. Từ đây ra đến ngoài Bắc phải ngồi thêm
mười mấy tiếng nữa. Tôi đếm từng nhịp dập dềnh lên xuống trên những thanh tà vẹt.
“Thiên hạ đệ nhất hùng quan” đã gần ngay trước mặt. Tôi qua cung đường hiểm trở
cheo leo kỳ vĩ này không dưới chục lần nhưng thường là tôi ngủ gà ngủ gật hoặc dòm
chỗ này chỗ kia chứ chưa lần nào tận hưởng trọn vẹn đê mê như bây giờ. Cứ say
sưa và đừng thốt lời nào cả là tốt nhất vì ngôn ngữ của tôi đã trở nên khô khan
bất lực trước cảnh đẹp mất rồi. Nếu tôi mà tả được, hẳn tôi là thi nhân. Chợt
bên tai khe khẽ mấy câu thơ:
“Đồi
liễu ngàn mai cảnh quạnh hiu
Chia
hai Thuận, Quảng một con đèo
Lá dòm
mặt nước, cây mong lội
Biển bọc
chân non, sóng muốn trèo
Mặt đất
day ngang đường khuất khúc
Sườn
non dựng ngược đá cheo leo
Vén
mây muốn bước lên trên tót
Đoái lại
vầng trăng lẽo đẽo theo.”
- Ui
cha là hay! - Tôi vỗ vào đùi “đốp đốp” vì khoái chí. - Bài thất ngôn bát cú ni của
ai rứa bác? - Nhân tiện tôi cũng muốn bác biết là tôi rất thích thơ và có biết
chút xíu về thơ.
- Bài
ni là “Lên đèo Hải Vân” của nhà thơ Huỳnh Mẫn Đạt.
Thấy
tôi thích thú, bác hào hứng.
- Hồi
xưa mần chi có xe có tàu với cả hầm chui qua đèo như chừ mà người ta cũng leo
lên tới trên nớ rồi leo xuống, ghê thiệt cháu hì. Bài thơ ni lâu lắm rồi cháu,
trước cả thời Pháp thuộc lận.
Bác đọc
thêm mấy bài vịnh Hải Vân Quan khác nữa. Thời đi lại còn khó khăn, chinh phục
đèo Hải Vân lắm lúc đổi bằng sinh mạng. Lên tới cổng trời, nhìn mây bay trước mặt,
núi dựng bên hông, biển vỗ thì thầm đáy vực thì tức cảnh sinh tình viết ra nhiều
ý thơ hay. Người ta làm thơ là còn để con cháu đời sau biết mình đã tới đó. Tôi
nghe bác nói chuyện thơ, nghe bác đọc thơ cũng say sưa chẳng kém gì ngắm cảnh. Tàu
chúng tôi lại qua một hầm, trước mặt là cảnh mây bạc ôm lưng núi tôi mau miệng “đẹp
như trong thơ luôn bác tề”. Bác “ừ” một tiếng rồi chợt nghiệm ra điều hay ho,
bác chữa lại.
- Chắc
gần giống thôi cháu nờ, phải có “đoái lại vầng trăng lẽo đẽo theo” nữa mới y
như thơ.
Phải rồi,
giữa cảnh đất trời lồng lộng gặp nhau, núi non chập chùng uốn lượn mà thêm quầng
sáng trong vắt như ngọc như ngà “lẽo đẽo” theo chân thì quả là “đệ nhất” của “đệ
nhất”. Tôi thì lấy đâu ra diễm phúc mà ngắm đệ nhất cảnh đẹp như thế nhưng nhớ
lại cảm giác hồi nhỏ thức giấc buồn tè chạy ra vạc chuối thấy mảnh trăng già lơ
lửng trên đọt bạch đàn ở đằng tây, mảnh sao Mai lấp lánh trên đọt tre ở đằng
đông và xa khuất dưới rặng trời đã ửng hồng lòng bỗng lâng lâng. Bấy nhiêu cũng
là đệ nhất của tôi rồi.
Tàu
qua hết sáu hầm, Lăng Cô đón chúng tôi bằng hơi lạnh quyện trong gió biển. Cả
tôi và bác xốc lại cổ áo. Dường như đây là nơi khí lạnh quần tụ cô đặc, có lẽ là
để nhắc nhớ những người con xa quê lâu nay quen sống trong vùng nhiều nắng. Năm
nào về ăn Tết qua khỏi đèo Hải Vân mưa cũng phủ một màu trắng bạc thê lương, gió
lạnh cứa vào người run cầm cập. Thời tiết lúc này hơi khác với tưởng tượng của
tôi, Lăng Cô lạnh nhưng đã bừng nắng.
- Thấu
Huế rồi nì bác. - Tôi nói như reo.
- Cháu
về mô lận?
- Dạ,
Hương Thủy bác nờ.
- Ồ, rứa
là tàu đi ngang nhà mình mà không được xuống phải chờ lên ga Huế rồi trở ngược
lại đó hỉ. Bác ở ngoài Phong Điền lận, hơi xa. Bác có mụ o ở Hương Thủy, làng
Thủy Tân. Cháu ở làng mô?
- Dạ,
cháu làng Phù Bài.
- Là
đoạn mô hè?
- Dạ,
dưới sân bay Phú Bài một chút. Tí nữa đi qua làng cháu, cháu chỉ bác coi.
Nói
xong câu ấy, tôi đếm từng cột cây số, từng khu chợ, từng cây cầu chờ tàu chạy
ngang làng mình, chờ đến lúc chỉ tay vào con đường bê tông chạy dọc Rào dẫn về
thôn Bốn, chờ tàu đưa tôi về với Khe Trong.
Chao
ơi, ai đẩy mà tàu chạy nhanh quá thể. Cầu An Nông đây rồi, chút nữa thôi tàu sẽ
băng qua cây cầu sắt bắt qua Rào. Hiện đại hóa làm mất đi nhiều thứ nhưng hai bờ
tre cong như đuôi én vẫn soi xuống Rào như ngày nào. Tôi quay lại nhìn bác tay
chực sẵn để chỉ bác coi. Bỗng dưng trong đôi mắt đục màu thời gian hằn sau những
vết chân chim ấy như có nước. Bác nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ nhưng ánh mắt vô
định buồn thiu. Tôi muốn gọi bác nhưng khoảnh khắc ấy không thể cất thành lời.
“Còn
mô mắm ruốc mướp cà
Còn mô
rau quế chấm và[1]
dưa gang
Ba mươi
lẻ một xuân tròn
Chừ
quê vắng mạ về còn ai trông?”
Dứt mấy
câu thơ bác đằng hắng nghẹn ngào.
- Tết
ni về thì còn mạ mô nữa.
Mệ mất
hồi đầu năm ngoái. Lần này bác về quê không còn để đón Tết, vui xuân như mọi
năm, bác về lo giỗ đầu cho mạ. “Nghe buồn quá bác ơi!” lòng tôi thổn thức. Cuộc
đời của mệ cuộc đời của bác lồng vào nhau trong một chuỗi những chuyện không phải
lần đầu tôi được nghe mà hôm nay là lần đầu tôi thấm thía đến vậy. Bác học Đại
học rồi lập nghiệp ở Sài Gòn - thời của bác, mệ lo cho bác học được đến đó là sự
hiếm hoi, cả làng được mấy nhà như thế. Ôn mất sớm, mệ một mình đơn chiếc với
gian hàng trầu cau, rau quả ở chợ An Lỗ nuôi bác thành tài. Bác mải lo công
danh sự nghiệp rồi lo cho con cái, đến khi mãn nguyện thì mệ đã tuổi xế chiều.
Bác rước mệ vào Sài Gòn mạ con sớm tối có nhau. Nhưng vui vầy chẳng được mấy chốc,
mệ biết mình đã là ngọn đèn trước gió nên nhất quyết đòi về quê. Mệ muốn được nằm
xuống trên phần đất của quê hương, lỡ mai hóa kiếp cũng thành cây cỏ trên đất
quê hương. Lá rụng về cội, người nhà quê đi đâu rồi cũng chỉ muốn về quê. Giờ
bác cũng thế. Gia đình bác có việc nên đúng ra ngày mồng Bốn bác mới về cùng với
vợ con một thể. Vé máy bay đã đặt rồi nhưng đến lúc giao thừa trông cảnh nhà
nhà cúng bái trang nghiêm trên bàn thờ bác nhớ mệ. Không đành lòng để mộ phần mệ
quạnh hiu ba ngày Tết, bác bất chấp mua vé tàu về trước một mình, ít nhất, là về
kịp thắp cho mệ nén nhang.
Mắt tôi
rưng rưng cay lệ. Cuộc đời là được và mất. Lựa chọn nào cũng có phần hi sinh
trong đó. Từ lúc lên tàu tôi đã để ý miếng vải đen bác đeo nơi ngực trái, nhưng
tôi đâu ngờ…
- Chi
cho bằng cơm với cá, chi cho bằng mạ với con. Bác hơn sáu chục mùa xuân rồi đây
mà cứ nhớ mệ là chảy nước mắt. - Bác đưa tay chùi vội giọt nước nóng hổi vừa
lăn khỏi hốc mắt, khuôn mặt co lại nhiều nếp nhăn hơn.
- Mệ
kho cá bống là ngon quẹo lưỡi. Từ nớ chừ ăn không biết mấy nhà hàng rồi mà chưa
có chỗ mô bằng.
Tôi bỗng
nhớ rau luộc, nước ruốc, canh dưa chua của mạ cũng ngon chưa chỗ nào bằng…
Tàu
qua ga Hương Thủy (một ga nhỏ của huyện tôi đã lâu không có tàu dừng), hai bác
cháu sửa soạn xuống tàu. Chẳng còn bao nhiêu cây số nữa là về đến ga Huế, tôi đếm
từng ngôi nhà xoẹt ngang bên cửa sổ. Bác định quay sang chào tạm biệt người bạn
cùng băng ghế nhưng chú đã ngủ say nên hai bác cháu khoác ba lô đi thẳng. Hai
cái bóng đổ dài trên sân ga, sải từng bước dài. Bác và tôi, cách nửa cuộc đời,
vẫn là hai đứa con chung một nỗi niềm với mạ. Ra đến cổng, bác bắt tay tôi chào
tạm biệt và bằng tất cả niềm kính mến của lớp con trẻ đối với bậc cao niên tôi
ngập ngừng như đứa trẻ tập nói nói lời chia buồn với bác, xin bác cho tôi thắp
một nén nhang lòng nơi mộ mệ.
Dốc Trụ
Điện vồn vã đón những bước chân không mệt mỏi của tôi. Nắng chiều bảng lảng đọng
từng khóm vàng mỏng tênh trên bụi nho đất, chưa có sương nhưng nhìn ra xa đã thấy
vệt nắng mờ mờ tan dần trong hơi nước. Tôi cắm đầu nhoi mông leo lên dốc, vừa
leo vừa đếm. Còn mấy trăm mét nữa thôi là về đến nhà. Phải qua ngõ nhà Bé Ti đã
mới đến ngõ nhà tôi. Tôi liếc vội, may chẳng thấy nó đâu. Tôi vừa mong gặp nó,
lại vừa mong nó đừng thấy tôi vội. Chao là ngớ ngẩn, tôi đang nghĩ gì thế này?
Mà thôi, mặc kệ tất cả đi vì trước mắt tôi đã là nhà. Tôi đi giữa hai hàng chè
tàu thẳng đều răm rắp, dấu rựa ba tỉa làm đứt cả lá và cành vẫn còn mới nguyên.
Năm tôi lên chín lên mười hàng chè tàu cao khuất đầu tôi và bây giờ nó chỉ còn
ngang vai nhưng thằng Tộp thì vẫn vậy, vẫn rón rén chờ nghe “Ôn nội cô cha mi…
thằng tê…” Nhác thấy dáng ba ăn vận chỉnh tề lom khom móc túi gì đó vào xe, tôi
đi chậm lại. Như mọi khi, mạ lật đật xách mũ bảo hiểm hối ba dắt xe ra. Ba bước
nữa thôi là chân tôi chạm vào sân. Mạ chưa thấy tôi nhưng con Vện mỏng mui đã tố
cáo tôi với mạ. Nó chạy đến liếm tới tấp vào chân, vào tay rồi đòi nhảy lên liếm
luôn cả mặt. Theo phản xạ, tôi nạt nó một trận dù nghe tiếng hí hí trong họng
nó tôi khoái chí lắm. Như dự đoán, mạ vừa mừng vừa lo chạy tới đỡ cái ba lô rồi
gô cổ tôi lôi vào nhà. Mạ nói rồi mạ chửi, mạ chửi xong lại hỏi, tóm lại tôi chẳng
rõ mạ nói gì chỉ biết “dạ dạ” liên tục rồi phân bua “con về chơ, lỡ khôn về mai
mốt vàng mô mà cưới vợ…”
Hai mạ
con nói qua nói lại hơn chục phút mà chẳng ra ngô ra khoai gì, ba rầy mạ giọng
ba vui vẻ pha chút tếu táo như mỗi lần ba có chút men.
- Hai
mạ con nói chi mà nói lắm rứa thê, e nói tới túi cỏ. Chừ có đi khôn ri? Nói nữa
là ở nhà nhậu khôn đi mô hết đó nghe.
Ba cười
cười chỉ tay vô chai rượu để trên góc tủ chú thích thêm rượu quý Tết ba chưa mời
ai hết. Giờ mạ mới nhớ ra ba mạ đang chuẩn bị về ngoại, bên ngoại chiều nay có
tiệc. Mạ cuống quýt xuống bếp xào cho tôi dĩa thịt ba chỉ ướp chua ngọt, rồi dặn
tôi chuyện tắm rửa, chuyện két mì tôm mạ cất chỗ nào, bánh tét để ở đâu vân vân
mây mây từ trong nhà ra ngoài hiên rồi mới chịu lên xe cho ba đèo. Ba lên ga,
cài số rồi mà mạ vẫn dặn với vào trong. Tôi chỉ muốn nói thằng con của mạ tính
tuổi mụ năm ni là ba chục rồi đó mạ nờ mà tranh không kịp phần của mạ, chưa kịp
mở miệng xe đã khuất ngoài hàng chè tàu. Mùi thịt ướp chua ngọt giờ mới bay đến
chỗ tôi ngồi làm hai cánh mũi phập phồng, nước miếng lại ứa ra, tôi lả người đi
vì đói. Đói ăn và đói cả cảm giác thân thuộc thoái mái như lúc này.
Tôi ăn
như bị bỏ đói cả thập kỷ rồi, no đến mức không dám đi tắm dù hơn một ngày trên
tàu bụi đường rít ráy vô cùng. Tôi lên phòng học nhìn qua bên kia hàng chè tàu.
Giỏ hoa Tết của Bé Ti đu đưa bên cửa sổ góc nó thường hay ngồi. Vừa nảy ra được
một ý tưởng hay ho, cái tay tự động cho vào túi lôi điện thoại ra. Tôi trố mắt
nhìn vào màn hình, có tín hiệu wifi mới “Lớp TA TiNa”, sau một giây ngỡ ngàng,
tôi bật cười thành tiếng. Khe Trong giờ wifi phát lên tận núi, kiểu này đi mót
củi không phải sợ lạc nhau phải dùng tiếng hú tập hợp nữa rồi. Dù tôi đã nghe mạ
kể Bé Ti mở lớp dạy Tiếng Anh, xóm trên xóm dưới xóm bên đều có học trò đến học
nhưng vẫn ngỡ như mơ. Trời ơi, Khe Trong tù mù của tôi giờ có cả lớp Tiếng Anh
thiệt sao? Ý nghĩ về lớp học ấy làm tôi thấy vừa thấy lạ vừa thấy thích.
Tôi
đưa điện thoại lên, zoom đến thật gần chụp hình cái giỏ hoa gửi cho Bé Ti. Nó
không trực tuyến, chắc nó đi chơi đâu đó rồi. Cảm giác trở về lần này thật lạ,
như mình vẫn là mình nguyên sơ hơn chục năm về trước, nhưng cũng là mình mới mẻ
của thì hiện tại đầy háo hức. Không chỉ tôi mà sau cánh cửa tủ thờ kia có một
khoảng trời, một kỉ niệm, một câu chuyện, một bí mật cũng còn nguyên sơ, cũng đầy
háo hức như thế. Tôi cất nó từ hồi tôi mười sáu tuổi đến nay.
Nghĩ đến
góc nhỏ trong tủ thờ tôi thầm cảm ơn ba mạ đã dành cho tôi một nơi đủ lớn đủ
riêng tư để cất giấu những gì mà người ta thường gọi bằng những từ hoa mỹ như
là thời thơ ấu, kỉ niệm học trò, thanh xuân, tuổi trẻ… Còn tôi gọi nó là “trẻ
trâu”. Mỗi lần sửa sang nhà cửa phải dẹp đồ đạc ba mạ đều giữ lại nguyên vẹn góc
tủ ấy cho tôi. Chừng ấy năm mà chưa có thứ nào bị cho vào sọt rác hoặc đem nhóm
bếp. Lòng vui lâng lâng, tôi thò tay lên góc tủ lấy ổ khóa mở cánh cửa đã ngủ
yên từ đó đến giờ. Mùi thời gian từ những trang giấy cũ bay lên. Không thoáng
chút nghĩ ngợi nào, tôi rút cuốn sách Bồi
dưỡng học sinh giỏi Toán lớp 9, lật trang đầu lấy ra cặp giấy vở ép hai con
bươm bướm Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài dán bằng keo 502. Tôi đã chọn loại giấy vở
dày nhất để đảm bảo người ngoài nhìn vào không thể thấy được tác phẩm bên trong
của tôi và Bé Ti nên giờ tôi phải đưa lên hứng ánh sáng mới nhìn rõ. Vẫn là con
bướm vàng có những chấm bi đen, vẫn là con bướm xanh màu thanh thiên tuyệt diệu
và vẫn là những bông khế khô xếp hình trái tim ấy, chỉ khác là giờ tôi đã dũng
cảm tự nhận rằng mình muốn tặng nó cho một người khác không phải Trang. Tối hôm
ấy, tôi hoàn thành tác phẩm mà tôi và Bé Ti chuẩn bị hơn nửa tháng trời, lòng rộn
ràng như có hội. Nhưng tôi không háo hức vì nghĩ ngày mai thôi Trang sẽ nhìn thấu
lòng mình, tôi lâng lâng một nỗi vui rất lạ chính tôi lúc ấy cũng không hiểu nổi.
Xong xuôi mọi thứ, tôi cất món quà vào cặp để trưa mai đưa cho Bé Ti như đã bàn
với nó, lòng bâng quơ không ngủ được. Từ nãy giờ, trong lúc tỉ mẩn dán từng
bông khế tôi chỉ nghĩ đến mình nó, không chỉ nghĩ mà trước mắt tôi toàn là nó.
Là nó lúc tòng teo bu trên chạc ba cây khế. Là nó lúc ngã xuống đất va vào mảnh
sành làm tôi chết khiếp. Là nó lúc tôi băng vết thương vừa tội nghiệp vừa buồn
cười. Và nhất là đôi mắt đầy nước trong veo nó ngơ ngác nhìn tôi… Sao mà xao
xuyến lạ. Tôi cứ nghĩ rồi cười, nghĩ rồi cười, dù tự xỉ mình khùng mà không dứt
ra được. Tôi mang đôi mắt đầy nước ấy vào giấc mơ. Trong giấc mơ hoa khế cuối
mùa cũng rụng đầy một thảm tím miên man như thế.
Trưa
hôm sau, nó chìa tay bảo tôi đưa món quà để chút trực cờ đỏ nó thực hiện sứ mệnh
tôi đã giao, tôi thay đổi thái độ. Tôi chẳng nhớ cụ thể mình nói gì, chỉ nhớ đại
khái là việc của tôi để tôi tự lo. Sợ nó sẽ tỉ tê với Trang tôi bắt nó hứa là
không được hỏi Trang về chuyện quà sinh nhật. Và tôi làm nó buồn. Sao tôi có thể
ngăn được cảm giác tổn thương trong lòng nó khi mà chính tôi đã kéo nó vào cuộc,
coi nó như đồng minh và coi món quà này là tác phẩm của cả hai rồi khi chúng tôi
sắp sửa về đích thì tôi lạnh lùng đá một phát hất nó ra xa. Nhưng giá mà nó hiểu
khi nó nói lẫy “Em biết rồi đỏ, em không xen vô chuyện của anh Tộp với chị
Trang nữa mô” rồi cả mấy tuần liền nó ngồi im lặng sau xe tôi đã buồn đã tổn
thương còn hơn nó. Giá mà nó hiểu món quà đó tôi chỉ dành tặng riêng cho mình
nó…
Và tôi
cất tất cả từ đó đến giờ. Nhưng hôm nay tôi đã dũng cảm thừa nhận lòng mình, thừa
nhận với nó dù chỉ là chút kỉ niệm cũ càng…
- Anh
Tộp! Anh Tộp như ma á hỉ?!
Tôi giật
bắn mình như bị ai nắm thóp, nhanh hơn cả suy nghĩ, tay tôi tự động đút cặp giấy
đang cầm vào lại cuốn sách, nhét sách vào tủ, đóng cái rầm xong khóa tủ lại.
Tôi rút chìa khóa cất vào chỗ lúc nãy, phải nhốt chúng lại trước khi chúng kịp
thức giấc. Tôi hành động nhanh và chắc chắn như người đang bị truy sát đi một
bước tính một bước không được sai dù chỉ một ly. Tôi đang trong một cuộc chạy
trốn khẩn trương mà cảm xúc, kỉ niệm và cái đứa đang đứng trước mặt tôi vào vai
sát thủ. Dũng cảm đâu chẳng thấy, khoảnh khắc ấy Bé Ti mà biết tôi đang cầm thứ
gì trên tay, hoặc hai con bươm bướm ấy hiển linh thức dậy kể hết với Bé Ti nỗi
lòng khờ dại của tôi thì tôi sẽ chết.
- Anh
Tộp bu trực thăng ra thiệt luôn đó hả?
Nó vui
vẻ đến ngồi chỗ bàn nước nhìn tôi. Tôi ú ớ một chặp mà chẳng nói được gì nên chỉ
cười trừ. Tôi mở khay đựng bánh mứt mạ bỏ sẵn trên bàn để tiếp khách, bốc một nắm
hạt dưa mời nó rồi rót trà trong bình ra ly dù nước trà đã nguội ngắt. Tôi cố lấp
liếm sự vụng dại, ngượng ngùng của mình. Thấy tôi im re, khác với kiểu nói chuyện
tào lao hai hôm trước nên nó nhìn tôi vẻ thăm dò. Nó hạ giọng.
- Anh
Tộp mới ra chừ luôn à? Hồi sáng em qua có thấy mô.
- Ờ,
lên tàu chiều mùng Một, mới tới nhà khi nớ đó. - Tôi nhìn quanh nhìn quơ, mắt
không dừng lại ở một điểm nào cố định.
Câu trả
lời trống không, tôi cố để không dùng đại từ nhân xưng vì không muốn cứ mãi mi
- tau với nó, lớn cả rồi nghe kỳ lắm nhưng chẳng biết xưng thế nào để không ngượng
miệng.
- Anh
Tộp gặp bác chưa? Chu chà, bác mờn lắm đỏ. Anh Tộp không ra, chị Bé không về bác
khót sưng mặt luôn á.
- Gặp
rồi. May về đúng lúc hai ôn mụ[2] chuẩn bị qua ngoại.
Tôi trầm
ngâm, chắc do nó nhắc đến mạ. Bé Ti là đứa tinh ý và có lẽ nó rất hiểu tôi, nó
hỏi tôi có chuyện gì mà sao thấy tôi lạ lạ. Sao tôi nói không về rồi cuối cùng bất
ngờ xuất hiện giữa Tết thế này. Nó hỏi chân thành đến nỗi dù tôi có ngậm cả tấn
lạnh lùng, có ăn cả tạ giả dối cũng không thể không trải lòng với nó. Nhất là
khi câu hỏi của nó đến vào lúc cái túi cảm xúc trong tôi đã căng tròn đến miệng.
Tôi kể hết cho nó nghe về em, về sự dằn vặt cứ cuộn chặt trong lòng khi tôi sém
để mình mắc kẹt trong mớ cảm xúc lẫn lộn đến đáng sợ. Chưa bao giờ tôi thẳng thắn
nói về mình như thế, cũng chưa bao giờ tôi thừa nhận với ai khác là tôi đã thấy
mất phương hướng cuộc đời. Tôi đã tìm không ra động lực phấn đấu Tôi đã sống tẻ
nhạt vô vị đến nỗi bản thân không biết mình cần gì và thích gì. Trong phút động
lòng dốc cạn bầu tâm sự như kẻ say ấy tôi đã trả nó và tôi về đúng với tuổi của
mình. Đó là lần đầu tiên tôi thôi nhìn nó như nhìn con Bé Ti hồi nhỏ, thôi xưng
mi - tau với nó mà cho mình một đại từ đúng với tuổi: Anh. Đáng ra tôi phải làm
điều này từ lâu rồi.
Nhưng
tiếc thay, tôi kể say sưa chuyện đã qua còn phần hào hứng nhất tôi chưa kịp nói
thì nó về mất. Ngoài ngõ vang tiếng xe máy lạch bạch chạy vào sân nhà tôi, là
khách của ba mạ đến thăm chúc Tết. Hết lượt tôi giờ đến nó ngập ngừng, nó đứng
dậy chào tôi về. Nó nói lí nhí trong miệng nhưng tôi đang căng tai nên nghe thật
rõ.
- Thôi,
em về anh… hí.
Nó ngừng
lại một quãng sau tiếng “anh” phát ra nhẹ như gió ấy. Theo thói quen, nó sẽ nói
“anh Tộp” nhưng lần này nó vứt bớt đi cái tên “Tộp, Tộp” buồn cười ấy của tôi. Có
lẽ nó cũng đang cố trả tôi và nó về đúng tuổi của mình như tôi đã làm. Nó quay
đi thật nhanh rồi biến mất bên hàng chè tàu. Tôi thầm tiếc ngẩn tiếc ngơ, tôi
còn chưa kịp kể cho nó nghe vì sao tôi nhất định phải về nữa mà. Vì mạ vì ba và
rất nhiều phần là vì nó đó, nó có biết không?
Tôi tiếp
khách xong thì chạng vạng, Khe Trong lên điện lên đèn lập lòe xanh đỏ. Lát sau,
ba mạ về xách theo khoen thịt ba chỉ gói trong lá chuối mệ ngoại gửi cho tôi.
Ba đã thấm chút men ngà ngà say nhưng cả năm mới gặp thằng con độc nhất nên ba
vui, ba không đi ngủ sớm. Mạ được mùa tám chuyện với mấy o trong xóm, rôm rả cả
nhà dưới bỏ mặc tôi với ba loay hoay quạt than nướng thịt. Mạ đã chẳng quan tâm
thôi thì tôi với ba tự xử theo kiểu của những “người trong giang hồ”. Ba rưới mắm
muối lên khoen thịt rồi xâu cả khoen cho lên than nướng đến cháy sém, mỡ chảy nổ
lốp bốp rớt xuống than hồng làm lửa phật bần bật. Hai cha con túc tắc hàn huyên
bên cái chén lúc lưng lúc đầy thứ rượu quý ba cất hơn nửa năm có lẻ. Thấy chưa
đủ ồn ào, tôi rủ ba bật ka-ra-ô-kê phá xóm phá làng một bữa để cả xóm biết thằng
con ông Thiện mới về, nhà ông Thiện không ăn Tết đìu hiu vắng vẻ. Ba bật nhạc,
tôi gật gù lấy đũa gõ vào thành chén hát theo ba. Âm nhạc lúc ta say, lúc ta
vui ngất ngưởng nó cũng say cũng ngất ngưởng theo từng tiếng nhịp đầy ngẫu hứng.
Lời bài hát chạy nghiêng trên màn hình, trước mặt tôi mọi thứ cũng nằm nghiêng.
Tôi
không nhớ nổi ba và tôi ca hết mấy bản thì dừng, cũng không biết là ba đã dìu
tôi hay tôi dìu ba về chỗ ngủ. Chỉ nhớ là chúng tôi đã vui như Tết, chúng tôi
cười chúng tôi hát chúng tôi say sưa khoác vai nhau lúc lắc đi hết những bản nhạc
vàng trong cuốn băng cát-sét rè rè hai chục năm trước.
Tôi thức
dậy khi bụng đã cồn cào, ánh sáng bên ngoài hắt qua cánh cửa sổ khép hờ làm tôi
lóa mắt phải lim dim hồi lâu mới mở ra được. Nhà dưới, tiếng ba và mạ nói chuyện
vọng lên thấy xa nhưng vẫn đủ nghe. Hình như ba cũng vừa mới dậy.
- Hai
cha con mần chi như đầm chay hát bội khôn cho làng xóm họ ngủ. May mà Tết chơ
khôn họ tới họ dợ nhà lọng chừng.
- Được
ba ngày Tết mà dợ răng được.
- Cái
thằng nớ hát cho lắm chừ còn ngủ, e khôn khéo hắn ngủ thấu chiều.
- Ưa
ngủ chừng mô cho ngủ thoải mái. Mạ mi răng khó rứa hèo.
- Ơ ờ,
tui khó chi rứa hèo. Kêu con dậy cho hắn ăn cả canh nguội mà nói khó. May vét vại
còn được ít dưa chua đủ nồi canh đặc đặc. Để nguội sợ cá tanh ăn khôn ngon.
Mạ nhắc
đến canh dưa chua nấu cá làm tôi thấy đói thở ra cả lỗ tai. Giờ tôi mới đủ tỉnh
táo để nghe thấy mùi thơm của dưa chua, cá béo và lá ném từ nhà dưới bay lên. Mạ
nấu canh chua cách mấy nhà còn nghe ra mùi thơm đậm đà ám ảnh này. Mùa nào thức
nấy, tùy từng buổi chợ mạ lựa những thứ rẻ mà tươi theo mùa muối. Khi vại dưa
chua đến độ ăn được, mạ mở vại ra thôi tôi ngồi ở nhà trên nước miếng đã vón
thành cục. Mấy o trong xóm hay đến nhà tôi xin nước chua về làm cái. Hồi trước,
mạ muối dưa chua là để làm được nhiều món dễ đưa cơm, sau dần nó thành đặc sản
của mạ vì chị em tôi nhớ mạ là nhớ canh chua. Tết nhất nhà người ta trữ nem trữ
chả, nhà tôi trữ đầy một vại dưa chua. Đi xa, nhớ mạ, thèm canh chua ròng rã cả
năm trời nên dạo nào về cũng tranh thủ ăn ngày ba bữa, ăn bù cho những xa mạ.
Tôi ở Sài Gòn nếm qua đủ kiểu canh chua nam bộ, thực lòng không dám chê dở
nhưng vẫn cứ khắc khoải quay quắt thèm vị chua hơi gắt do tay mạ muối. Không chờ
mạ lên lôi dậy như mọi khi, tôi sẽ tự nguyện lết xác xuống trước để mau chóng
húp soàn soạt tô canh cho đã thèm. Tôi xoay người, thò chân xuống nền quờ quạng
tìm đôi dép. Giọng mạ ở nhà dưới vẫn vang lên đều đặn.
- Ba
mi ăn thử nem chả ni nì. Của Bé Ti đỏ, nhà trên nớ mới về thăm coi mắt.
- Dòm
ngon hèo. Rứa họ xin ngày mô cưới chưa?
- Nghe
nói chưa coi được ngày mà chắc tháng Ba ni cưới.
Tiếng
chậc lưỡi của mạ, tiếng chạm đũa vào đĩa sứ của ba nghe mồn một.
- Cũng
hơi dùng dằng, nhà gái thì nói vội quá ưa để tới tháng Chín mà nhà trai thì sợ
tháng Chín trúng mưa lụt mệt.
- Rứa
thì chọn tháng mô giữa năm cho hợp với cả hai bên.
- Cầm
hèn chi ba mi chưa có dâu, nói nghe ngó lạ lẫm. Chuyện cả đời con người ta, ba
mi làm như ưa khi mô cưới khi nấy được rứa. Tuổi con Bé Ti chỉ có hai tháng nớ
là xuất giá được. - Mạ rầy.
- Nghe
mắc mệt. Chậc, rứa là mấy tháng nữa con Bé Ti lên trên nớ, tụi con nít hết chỗ
học Tiếng Anh cha rồi…
Hai
tai tôi lùng bùng rồi ù đặc không nghe thêm được gì ngoài tiếng lá lao xao hát
trên những ngọn đồi. Cả tiếng nước róc rách như rỉ ra từ đá của con khe mùa cạn.
Cả tiếng vườn khuya giun dế nỉ non. Cả tiếng thảng thốt giọt sương ngậm trăng rớt
trên tàu lá chuối. Và cả tiếng cười giòn vang của tôi, của nó, của chúng tôi những
ngày xa ngai ngái trong thời gian nhưng lại gần ngay trong ký ức. Gần như một
cái chạm tay thôi mà mãi mãi tôi không về lại được. Ba tháng nữa xóm Khe Trong
vắng bóng “Lớp TA Tina”, ba tháng nữa xóm Khe Trong vắng bóng một người, còn
tôi, tôi vắng cả một quãng trời xanh lồng lộng thương nhớ.
Sau
thoáng chơi vơi mất điểm tựa, tôi lấy lại được sức để giữ cho mình ngồi thẳng.
Chút men còn lại trong người vừa theo dòng cảm xúc vi vu đâu đó ngoài kia. Tôi
thấy mình tỉnh táo. Tỉnh như chưa khi nào được tỉnh đến thế. Khe Trong vắng đi
một người Khe Trong vẫn chảy, cớ gì tôi lại đứng im. Phải đi chứ, đi về phía của
tương lai dù vắng xa khoảng trời nhung nhớ ấy. Gần ngay bên kia là cánh cửa tủ
thờ nhốt một câu chuyện ngót nghét mười lăm năm. Đã đến lúc tôi mở toang cánh cửa
giải thoát những ẩn ức của mình. Chút nữa tôi sẽ mang bí mật của hai con xanh
vàng Lương Sơn Bá - Chúc Anh Đài ấy sang cho Bé Ti như một lời thú tội với nó,
với tôi, với những ngày xa trong trẻo của chúng tôi. Nó sẽ phá lên cười, rồi
tôi cũng phá lên cười “Ngu quá chơ mô!”. Tôi hi vọng Bé Ti sẽ nhận món quà ấy,
sẽ cất nó như cất một kỉ niệm đẹp. Và sau chót, nó sẽ kể cho con cái nó nghe
cũng như tôi kể cho con cái mình nghe rằng Khe Trong có một thằng Tộp ngu ngơ
khờ khạo như thế. Cảm ơn nó đã đưa tôi về lại Khe Trong, để tôi, trong mấy ngày
ngắn ngủi đã tìm ra đáp án của cuộc đời mình, và hơn thế nữa là tìm thấy chính
mình.
Tôi sẽ
về. Về hẳn. Về, không tha phương nữa. Về với mạ với ba với Khe Trong. Về ăn dưa
chua mạ muối, về nghe nhạc vàng ba hát, về sống cuộc đời của chính tôi, một cuộc
đời riêng và duy nhất. Bé Ti đi rồi Khe Trong buồn biết mấy, tôi cũng buồn biết
mấy. Nhưng năm tháng dài rộng thế, nỗi buồn nào rồi cũng sẽ nguôi ngoai chỉ
thương nhớ là ở lại, như lòng Khe Trong mênh mang dặt dìu mùa đầy mùa cạn. Tôi
quyết rồi, không biết bằng cách nào nhưng tôi sẽ gánh thay phần việc của nó.
Khe Trong nhất định đông vui, sôi nổi hơn bây giờ. Tôi đẩy tung hai cánh cửa sổ
nhìn ra vườn. Mồng Ba Tết nắng nhẹ vàng phai rớt những chấm tròn như những mặt
trăng nhỏ nhảy nhót trên nền lá mục dưới tán cây. Cây khế chua nơi góc vườn già
thêm mười mấy tuổi nom xù xì hơn một chút nhưng chồi non lá biếc vẫn rẽ lớp vỏ
đen thô ráp mơn mởn trồi ra. Vài tháng nữa thôi là khế đơm bông trải thảm tím hồng,
góc vườn sẽ lại rộn ràng từng đàn xanh vàng có cánh dập dìu. Không biết rồi đây
ai sẽ lượm bông khế phơi khô và ai sẽ rình bắt những Lương Sơn Bá - Chúc Anh
Đài ấy? Tôi mơ màng thấy mình trong phòng học bên con laptop với những bản
ghi-ta xưa như Trái Đất. Trong playlist, đầu tiên sẽ là bản Romance. Và, như mọi
khi, trái tim tôi còn đập là còn tan chảy ngọt ngào trong Romance, còn nhảy múa thánh thót trong Fur Elise, còn thổn thức trong Million
Scarlet Roses… dù bên kia hàng chè tàu cửa phòng im ỉm khóa, dù bên kia
hàng chè tàu không còn ai thức cùng. Chỉ còn trăng. Trăng hững hờ rót từng giọt
dịu mát trên tàu lá chuối. Trăng phủ một lớp óng ánh ngọc ngà lên hạt sương đêm
như hạt cườm trên cổ con gái. Chỉ còn nắng. Nắng ủ trong gốc rạ, trong hòn đất,
trong lớp lá khô, trong củi bạch đàn và ủ trong làn tóc ai đó thơm đến nồng
nàn, thơm như là kỷ niệm…
- Bơ Tộp, dậy con!
--- HẾT
---
Về khi nắng còn thơm (11) - Lệ Hằng
Reviewed by Lê Sính
on
8:52 PM
Rating:

No comments: