Chuyện Của Những Cú Lừa
CHUYỆN CỦA NHỮNG CÚ LỪA
Xin nước mắt sẽ vơi
nơi giọt buồn đọng lại.
Xin ban mai tỏa rạng
hong khô vạn vũng sầu.
1. Ông Đài rướn người lên kéo tấm
rèm cửa sổ cho nắng hắt vào phòng. Lúc trưa, thằng Quang - cháu ông - đã thả
hai cánh rèm xuống đặng che nắng xế chiều, nó không biết rằng ông ghét cái thứ
cứ chận ngang tầm mắt ấy lắm. Chói quá, ông nặng nhọc đưa tay che mắt. Đã vào
giữa hạ, mặt trời dẫu xế chiều vẫn đanh và xót xáy lắm. Gió thổi lao xao trên
chòm lá vối bên hiên nhà bà Quế, đối diện chỗ ông nằm. Chợt, ông thèm ly nước
lá vối tươi quá thể. Cả tuần nay rồi ông chỉ mới húp được mấy ngụm bà Quế dè dặt
mang sang. Từ ngày cây lá vối cao quá đầu thằng Quang, ngày nào ông cũng uống đều
đặn hai ấm sáng – chiều. Ông uống hoài thành nghiện, lá ra không kịp cho ông
xin. Buồn thay cho ông, đang mạnh phơi phới ngày nào cũng đạp một vòng xe ra chợ
rồi hiên ngang chở về giỏ thức ăn cho hai ông cháu, thỉnh thoảng còn mua hộ cho
cả bà Quế neo đơn, vậy mà bất cẩn một giây trượt chân có phát rồi nằm cả tuần
không ra khỏi giường vạ khổ cho thằng cháu. Nó phải thay ông chăm đàn gà, gom
trứng đi bán, lo chợ búa, nấu nướng, giặt giũ và cả bưng bô cho ông. “Thiểm
quá!” Ông nghẹn ngào tự vả mình. Nước mắt ông trào ra, đục ngầu, chẳng khác gì
màu của mảng ký ức cứ sóng sánh theo từng ngày, từng tuổi của thằng Quang.
Ba mẹ thằng Quang kết thúc cuộc hôn
nhân sóng gió trong yên ắng bằng những văn bản và lời phán quyết rõ rành của
tòa án. Thế là li hôn, là hết chung đụng dưới một mái nhà chứ chẳng phải là kết
thúc một cuộc tình vì giữa họ tình yêu là cây nến thiếu tim nên chẳng bao giờ
có thể thắp lên được. Tại ông, tất cả là tại ông. Ông lại tự vả mình cả trăm cả
ngàn lần mà không nguôi được. Ông biết rõ ba thằng Quang không hề yêu mẹ nó
nhưng vẫn cố ép duyên như “ép dầu, dép mỡ” vì mẹ nó là con nhà tử tế còn cô gái
kia là “đầu đường xó chợ” tình cờ lang bạt đến đây, gốc tích, gia cảnh chẳng biết
hỏi ai mà lần. Ăn đời ở kiếp không chỉ cần “tình” mà còn cần “nghĩa”, có
“nghĩa” ắt sẽ có “tình”. Như ông và bà lúc được hứa gả cho nhau có thấy mặt mũi
nhau sứt mẻ hay lành lặn thế nào đâu, vậy mà vẫn mặn nồng vẫn yêu vẫn ghen cho
tới ngày chẳng thấy nhau được nữa. Và dù bà đi sớm vẫn không người phụ nữ nào
chen vào tim ông được. Đó, cuộc đời ông là minh chứng hùng hồn nhất rồi còn gì.
Nhưng không có nghĩa cuộc đời con trai ông cũng thế. Gần mười năm chung sống,
thằng Quang sáu tuổi thì họ bỏ nhau và bỏ đi. Thành phố này không thiếu việc
làm cho họ nhưng nó nhỏ quá, họ sợ lại thấy nhau trên bước đường đời và thành
phố này cũng chật chội u ám quá vì nó đã chất ngất những kỉ niệm buồn, những
đay nghiến và đổ vỡ tột cùng nên họ phải đi, mỗi người một hướng. Chỉ có thằng
Quang – hình bóng cuối cùng của cuộc hôn nhân - ở lại với ông. Nó thành đứa mồ
côi tình thương cha mẹ, mỗi năm chỉ mong duy nhất ngày sinh nhật được ôm quà và
thư của ba mẹ nó gửi về.
Ông Đài nhấc tay quệt ngang nước mắt,
hình như nước mắt làm ông thấy mình yếu hẳn. Ông dỏng tai lên ngóng thằng cháu.
Thì giờ trôi qua chậm chạp, chẳng biết khi nào mới nghe tiếng xe đạp cọc cạch vọng
trên lối vào con hẻm hun hút này. Xa xa, còi xe máy dội lại làm ông thèm nhấc
chân lên và đi lại quá, như những buổi chiều trước đây ông đi bộ ra vào hẻm hít
thở khí trời. Nhà ông ở cuối cùng và hẻm cụt nên nếu chẳng phải là mấy người
đưa thư hoặc giao hàng gì đó thì cả tháng chẳng có chiếc xe máy nào đáp xuống.
Chợt, ông nôn nao như ai đốt lửa vào lòng, ông với tay cầm sẵn cuốn vở và cây
bút đặt trên đầu giường…
2. Bà Quế mừng mừng tủi tủi run rẩy
trả chiếc điện thoại cho thằng Quang. Cuộc điện thoại lịch sử sau ngót nghét chục
năm chờ đợi. Cuộc điện thoại cứu chuộc tâm hồn, giải phóng cho tháng ngày tội lỗi
của bà. Thằng Quang vẫn chưa về, nó sợ bà lăn ra xỉu. Lát sau, hai đầu gối lẩy
bẩy va vào nhau, bà nhờ nó đỡ dậy đến bên giường lôi ra một xấp thư xếp ngay ngắn
dưới gối. Nước mắt bà rớt giọt ngắn giọt dài trên thư. Thằng Quang đứng cạnh mắt
cũng đỏ kè ngấn nước. Nó quay mặt ra hiên nhìn cây lá vối rỡn gió lao xao, gạt
vội giọt nước.
Trong khoảnh khắc được tha thứ, bà
rưng rưng tua lại cuộc đời mình từ sai lầm đầu tiên. Bà bất chấp cuồng nộ của
gia đình để chạy theo người đàn ông bà quen và yêu chớp nhoáng. Khi ấy, bà đang
là sinh viên khoa văn, số ít người xinh đẹp và có học thức trong xã hội nên bà kiêu
hãnh rạng ngời. Tình yêu lãng mạn sét đánh và bất chấp càng khiến bà kiêu hãnh
rạng ngời hơn. Sau cuối, không rạng ngời nhưng bà kiêu hãnh bước khỏi vòng tay
trăng hoa của người đàn ông ấy để một mình nuôi con. “Ba con chết trước khi con
được sinh ra.” Bà nói với con gái mình như thế, luôn luôn và duy nhất một câu
trả lời hơn ba chục năm không thay đổi. Con gái bà lớn lên với một tâm hồn
không cân đối, khuyết nửa tình thương của người cha và khát mãi câu trả lời cha
mình là ai. Không có một di ảnh hay một kỉ vật nào trong ngôi nhà cho cô bé tìm
thấy chút ấm áp hay đôi tí bóng dáng người cha. Và khi đã đi qua hơn nửa đời
người, khi đã làm mẹ cô bé ấy mới tìm thấy câu trả lời: Cha mình lâu nay vẫn sống,
sống gần mình và sống sờ sờ ngay trong thành phố quê hương mình. Khi ván bài đã
đến hồi lật ngửa, bà thừa nhận bà không bao giờ muốn cô nhìn mặt cha. Thậm chí,
lúc ông đã già nua ốm yếu, đã không còn nhiều thời gian, ông sám hối, cầu xin
bà cho nhận con một lần bà vẫn thẳng thừng nói không và dọa: nếu ông gặp con bé
thì chúng tôi sẽ biến mất khỏi thành phố này!
Bà không phải biến mất khỏi thành phố
nhưng ông và hơi thở của ông đã thành hư vô trước khi kịp nhận con, kịp nhận lời
tha thứ từ bà. Hơn ba chục năm khắc khoải, con gái nhìn mặt cha mình khi chỉ
còn trên di ảnh. Yêu thương và tôn thờ mẹ bao nhiêu bây giờ cô quay sang hờn hận
và trách móc trái tim sắt đá của bà bấy nhiêu. Bà chẳng yêu cô như bà đã nói,
bà chỉ nghĩ cho mình, cho sự hả hê trong thù hận của mình. Bà để cô lớn lên với
một tâm hồn què quặt không cha. Không chấp nhận được sự thật, cô dắt díu gia
đình nhỏ của mình rời thành phố vào Nam. Chỉ một lần duy nhất, sau khi rời
thành phố được một năm và tạm ổn định cuộc sống, cô viết thư cho bà để bà biết
cô đã ổn. Và chỉ một lần thư ấy, bà gửi bao nhiêu thư sau đó cô cũng không hồi
đáp, chỉ có tiền là cô vẫn đều đặn gửi về lo chu toàn cho mẹ. Dù ghét sự sắc lạnh
của bà nhưng chính cô ngày càng sắc lạnh giống bà, càng sống trong hình ảnh của
bà.
Bà còm cõi héo hon, bà khóc mỗi
sáng, mỗi trưa, mỗi chiều, mỗi tối. Hai mắt bà mờ đục. Bà không còn tự viết thư
được nữa, bà phải đọc nhờ ông Đài chép. Thư đi mãi rồi cũng có hồi âm, mấy năm
trở lại đây bà nhận được đều đặn hai tháng một lá thư từ cô. Thời đại này rồi,
điện thoại đầy cả ra nhưng cô chẳng bao giờ gọi điện cho bà dù lá thư nào bà
cũng nhắc ông ghi kèm số điện thoại của ông và thằng Quang. Bà biết cô chưa thể
tha thứ hoàn toàn cho bà được và bà cũng biết mình không đáng được tha thứ dễ
dàng như thế. Cuộc gọi vừa rồi của cô khiến bà chấn động. Chấn động hơn nữa khi
cô thú nhận nhiều năm qua cô không hề viết lá thư nào cho bà, cô chưa thể nguôi
ngoai nỗi hận cho đến hôm nay, khi cô cầm trên tay lá thư cuối cùng của ông
Đài.
3. Hơn bốn giờ sáng, thằng Quang trở
mình dậy dù đêm qua nó ngủ rất muộn. Nó sang gian bên ngồi vào chiếc bàn học đã
trống trơn. Nó nhìn lại ngôi nhà xập xệ, tất cả đều đã trống trơn. Chốc nữa
thôi nó sẽ ôm di ảnh ông lên xe theo ba nó vào miền Nam. Nó nhìn qua nhà bà Quế,
nó muốn sang tặng bà một kỉ vật của ông nhưng nhà bà điện vẫn chưa sáng, chỉ có
bóng ngọn đèn ngoài hẻm hắt vào cây lá vối thân quen. Nó cất con dấu có khắc chữ
“Bưu Điện Tỉnh Bình Dương” làm giả vụng về vào ba lô, cái con dấu mà ông và nó
đã cất công đẽo gọt lấy ý tưởng từ con dấu đồ chơi nó thường chơi mấy năm cấp Một.
Dù mắt bà đã rất kém nhưng ông vẫn đề phòng. Ôi, nó đã đủ lớn để thấy đó là một
trò trẻ con!
Xe khởi hành, nó rời hẻm nhỏ. Sáng
chủ nhật, đường vào nhà thờ ông hay đi lễ đã rộn ràng. Bất chợt, nó xin bác tài
cho xe dừng lại. Lần đầu tiên trong mười lăm năm có mặt trên cuộc đời, nó thấy
nó cần được nhìn một Đấng cao hơn và quỳ dưới chân Người. Trên cao, Thiên Chúa
đang nhìn nó. Bao nhiêu nước mắt nó kìm nén đằng sau mất mát tuôn trào thành
dòng. Nó khóc. Từ nay, sẽ chẳng có ai giả làm ba, làm mẹ nó để tặng quà và viết
thư cho nó trong ngày sinh nhật nữa. Sinh nhật lần thứ mười hai của nó, ba nó
vô tình gọi điện về lúc ông không ở nhà. Ba nó thậm chí không nhớ nổi năm ấy nó
bao nhiêu tuổi. Và mẹ nó cũng thế. Họ còn có cả một gia đình phải xây đắp và họ
cũng chật vật đủ điều. Nó chỉ thương ông, mấy cái sinh nhật rồi nó vờ vịt vui vẻ
khi nhận quà và viết thư lại, như thể nó chưa từng nhận cuộc điện thoại hôm ấy.
Chẳng còn nhiều thời gian nữa, nó hít thật sâu lôi chiếc điện thoại ra xóa một
nick Facebook có tên Vinh Nguyễn – tên của ba nó. Đó là tài khoản Facebook nó lập
cho ông, vì ông. Hai năm nay, nó thấy ông mỗi
ngày một già đi trông thấy. Ông không còn minh mẫn, tinh anh như trước nữa. Ông
kể đi kể lại ngày cả chục lần những mẩu chuyện chắp vá hồi ba nó còn ở thành phố.
Từ sở thích ăn chè đậu ván, ăn cá nục kho ớt xanh, ăn canh rau ghét canh bầu
cho đến mùi mồ hôi trên áo ẩm ương, cho đến việc ngủ ngáy, cho đến cái đánh rấm
cũng nên câu nên chuyện. Và càng ngày nó càng hiểu ông nhớ ba nó quay quắt. Mười
bữa như chục, nó đạp từ trường về dựng xe trên hiên là nghe ông kể ba nó mới gọi
điện hỏi han ông, nhắc nhở nó dù cả tháng ông mới nhận được một cuộc gọi. Những
hôm ấy ông vui ra mặt, ông ăn ngon miệng đến vét sạch nồi cơm. Nó ở gần ông lâu
ngày lây “bệnh”, nhờ mạng xã hội, nó đã thay ba chăm nom tinh thần cho ông.
Nhưng từ giờ sẽ chẳng còn ai thấp thỏm đợi tin nhắn từ Vinh Nguyễn nữa cũng như
sẽ chẳng còn ai sắm cho nó những bộ áo quần vừa vặn trong ngày sinh của nó nữa…
Thằng Quang vội vã lên lại xe.
- Đi được chưa con?
- Rồi ạ.
Giọng thằng Quang chắc nịch. Trước mắt
nó là con đường thênh thang dẫn đến phi trường, nơi có chuyến bay đã sẵn sàng cất
cánh. Nó cũng đã sẵn sàng cho chuyến bay của cuộc đời mình. Mười lăm tuổi, nó đủ
lớn để biết ba nó sẽ rất nhọc nhằn khi vừa lo cho nó vừa lo cho mấy đứa em mà
nó chưa từng biết mặt, nó đủ lớn để muốn mình trở thành một chàng trai vững
vàng ghé hộ một vai sớt gánh nặng cùng ba và đủ lớn để biết cất nín nỗi buồn nơi
trái tim.
Cuối con hẻm, bà Quế vừa dậy. Bà múc
tưới cho cây lá vối nhớ những ngày cố bấm đọt cho cây đừng lên cao quá để ông dễ
bề hái lá. Khổ, bà có uống nước lá bao giờ đâu, bà trồng cho ông uống thay trà
chứ uống trà tốn kém quá ông phải cai ngày cai đêm thấy tội. Nắng đã lên, nắng
hiu hiu rớt trên hiên nhà bà mấy chấm tròn thật dịu. Bà đứng trông sang, chợt gọi:
ra hái lá ông ơi!
Lệ Hằng, Đà Nẵng 13/6/2019
Chuyện Của Những Cú Lừa
Reviewed by Lê Sính
on
6:28 AM
Rating:

No comments: