Từ tuyệt tác hội họa đến nỗi đau bi hùng trên thập giá nhân sinh
HOÀI
NIỆM THU
(Thơ
Nguyễn Hoàng Đức)
TỪ TUYỆT
TÁC HỘI HỌA ĐẾN NỖI ĐAU BI HÙNG
TRÊN THẬP GIÁ NHÂN SINH
TRÊN THẬP GIÁ NHÂN SINH
Chạm
đến mùa thu là ta đang chạm đến một trong những đề tài cổ điển và tiêu biểu nhất
của thi ca mà ví như cuộc thưởng ngoạn thơ này là một bữa tiệc thì khách thơ sẽ
được đắm mình trong không gian nhuốm màu hoài niệm bên những điệu Valse lả lướt
say sưa và thời gian gần như phủ định quy luật của chính nó - ngừng chảy -
để đọng lại trong từng giọt tâm hồn. Bữa tiệc sẽ không hẹn giờ tàn, khách
thơ có thể đến rồi đi nhưng thơ sẽ còn ngân mãi bởi như Vũ Hoàng Chương nói:
“Ai rằng Thu khơi nguồn tiêu sơ?
Ta rằng Thu gây mầm tình mơ,
Chính tay Thu reo rắc mến thương bờ,
Bởi nàng Thu là chị của Nàng Thơ.”
(Mùa Thu Đã Về - Vũ Hoàng Chương)
“I
notice that Autumn is more the season of the Soul than of Nature.” (Friedrich Nietzsche) “Tôi nhận thấy rằng Mùa Thu là mùa của Tâm Hồn nhiều hơn là mùa của
Thiên Nhiên.” Câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche được xem là một phát hiện
độc đáo về mùa thu và là danh ngôn được sử dụng rộng rãi đặc biệt là khi người
ta bất lực trước việc giải thích những biến đổi tâm lý hết sức phức tạp trước
cuộc “thay áo” của trời đất. Vâng, hiển nhiên mùa thu là mùa của thiên nhiên
nhưng Nietzsche nhấn mạnh rằng nó là “mùa của Tâm Hồn nhiều hơn” bởi cảnh thu sắc
thu thường đánh thức sự mẫn cảm trong tâm hồn để khơi nguồn hoài niệm khiến nó
tuôn trào thành sông thành suối. Sự khích khởi, thay đổi, biến chuyển trong tâm
hồn mạnh mẽ hơn cả trong thiên nhiên bởi cảnh thu thì chỉ có một nhưng thế giới
nội tâm của mỗi người là một tinh cầu đặc sắc, khó hiểu và quẫy đạp liên hồi. Vậy
thì cái thiên nhiên ấy qua lăng kính chủ quan của mỗi người sẽ càng kỳ lạ, sẽ
càng độc đáo, sẽ càng say mê và sẽ càng “mùa thu” hơn nữa.
Ấy
là ta chỉ đang xét cái nội tâm, cái mẫn cảm, cái say mê của người bình thường
mà thôi. Riêng với thi sỹ - người được Đấng tạo hóa ban cho một trái tim dạt
dào, một tâm hồn nhạy bén trên mức bình thường – thì mùa thu còn xao xuyến còn
hoài niệm xiết bao. Có lẽ để tìm ra một thi nhân không để lại dù chỉ một vần
thơ thu sẽ khó gấp trăm ngàn lần là tìm kiếm một bài thơ tuyệt tác. Thi sỹ Nguyễn
Hoàng Đức cũng không ngoại lệ, Hoài Niệm Thu của ông là điển hình cho hồn
thơ dồi dào sức vóc thời đại, cảm xúc và lý trí quyện chặt vào nhau thăng hoa
trên những vần thơ súc tích, bác học. Đến với thi phẩm này chúng ta không chỉ đắm
say với những tuyệt tác hội họa bằng lời mà còn chất ngất với những nỗi đau
trên chiếc thập giá cuộc đời.
Nguyễn
Hoàng Đức là một thi sỹ đương thời, trước ông đã có rất nhiều nhà thơ thành
công khi chấm mực họa nét đẹp mùa thu. Vậy nên, trước khi đến với bức tranh thu
của Nguyễn Hoàng Đức ta hãy cùng nhau chiêm ngưỡng lại những tuyệt tác của các
tiền nhân.
Lội
dòng lịch sử thi ca nước nhà, cái tên Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến thật tự
nhiên hiện lên ngay trong dòng suy tưởng với chùm ba bài thơ mùa thu nổi tiếng:
Thu Ẩm, Thu Điếu, Thu Vịnh. Mỗi bài là một bức tranh thu chân thực nơi quê nhà
thanh bình tĩnh lặng vẽ bằng một nét bút tài hoa đậm tình người.
Thu Vịnh
(thơ Nguyễn Khuyến)
“Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào.”
Khắc
họa cảnh thu dường như không ai có thể bỏ qua sắc xanh của bầu trời ngày thu chạm
ngõ khi những con nắng đã vào mùa chín mọng vàng sóng sánh nhưng không còn đốt
“chang chang” và cũng không làm sao thoát được nỗi ám ảnh thời gian chảy qua kẽ
tay như khi ngắm những chùm “hoa năm ngoái”. Trong bài Thu thi sỹ Xuân Diệu
cũng ghi lại cảm thức thời gian để bức tranh thu ý vị của mình thêm lắng đọng.
Thu
(thơ Xuân Diệu)
“Nõn nà sương ngọc quanh thềm đậu;
Nắng nhỏ bâng khuâng chiều lỡ thì.
Hư vô bóng khói trên đầu hạnh;
Cành biếc run run chân ý nhi.
Gió thầm, mây lặng, dáng thu xa,
Mới tạnh mưa trưa, chiều đã tà.
Buồn ở sông xanh nghe đã lại,
Mơ hồ trong một tiếng chim qua.
Bên cửa ngừng kim thêu bức gấm,
Hây hây thục nữ mắt như thuyền.
Gió thu hoa cúc vàng lưng giậu,
Sắc mạnh huy hoàng áo trạng nguyên.”
Mùa
thu được họa bằng những nét chấm phá độc đáo, riêng ở khổ thứ hai với “dáng thu
xa” và “một tiếng chim qua” nếu phải họa bằng nét vẽ thực của người họa sĩ e là
chẳng dễ dàng để đạt được hết dụng ý nghệ thuật. Và, như đã nói ở trên, cảnh
thu chỉ có một nên sự rung động của thi sỹ trước tuần hoàn của đất trời suy cho
cùng thật giống nhau. Ấy là sự xuyến xao khi gặp màu trời xanh đến lạ, gặp mây
trôi lãng đãng, gặp sắc nắng giao mùa, ấy là sự rung động với nhịp thở thời
gian khi đêm kéo giãn, ngày tàn nhanh, sương xuống mờ bàng bạc ôm lấy không
gian và mùa về rạo rực. Nhưng, tài hoa, trí tuệ và thế giới quan mỗi nhà thơ mỗi
khác nên vẫn là mùa thu ấy nhưng trăm năm hay ngàn năm sau khách thơ vẫn bất ngờ,
vẫn xúc động, vẫn đắm say trước một vần thơ mới. Đấy là cách các thi nhân lưu dấu
tên mình trong lòng bạn đọc yêu thơ như những gì Nguyễn Hoàng Đức đã làm trong
Hoài Niệm Thu.
Vòi vọi trời xanh thẳm nâng lên
mỗi lần dâng mỗi lần quặn thắt
vắt nỗi đau qua những lớp mây mù
nặng
ký ức mùa ngâu rả rích
lã chã vấn vương
chưa
nguôi lệ sầu lòng đất sũng
Dòng sông gợn sóng đến gai lòng
Níu mây trôi ngập ngừng
Không dám buông lời nói
về những cơn mưa mùa hạ đã qua rồi
Muôn dòng sông
thả những khúc sầu ra biển
xao xuyến xô lớp lớp sóng cồn
dồn dập vỗ buồn mê mùa gió chướng
thủy triều tê lưỡi sóng
nếm vị nắng u hoài
bò loang bờ cát mặn
những sợi sáng se dìu dịu
của mặt trời u uẩn
nuối tiếc tuổi thanh xuân
ngày nào chang chang mùa hạ
ngổ ngáo sao và mãnh liệt sao
Hoàng hôn rải lớp sương lành lạnh
nhuốm con đường đất thịt cô đơn
những mái nhà trắc ẩn nhô lên
đội nón quai thao cho những vòm cây hiền hậu
da diết tâm hồn rách dọc mái nhà
một ý nghĩa cuộc đời vừa nứt
man mác mùa thu
man mác lớp da non cơn đau mùa hạ
Tranh
lồng vào tranh và nối tiếp tranh. Những bức tranh thu lần lượt hiện ra để kiện
toàn cho bức bích họa mùa thu tráng lệ, kỳ vĩ. Nếu ta cắt nhỏ ra cứ mỗi chỗ tác
giả dành một khoảng trống cách dòng là một lát cắt hay đúng hơn là một bức ảnh
như khi ta lia ống kính ngắm và chụp. Góc thu đầu tiên tác giả khắc họa là nền
trời xanh thẳm đến “vòi vọi”. Trong cái sắc xanh ấy hằn lên những “quặn thắt”, “vấn
vương”, “chưa nguôi lệ sầu…” vì những ký ức nặng nề. Ngoài sự khắc họa về nền
trời cùng lớp mây mù điển hình của mùa thu, thi sỹ còn khắc họa tâm cảm giao mùa
“vắt nỗi đau qua những lớp mây mù – nặng ký ức mùa ngâu rả rích.” Hoài niệm kéo
về từ thiên nhiên đi vào lòng người như một lẽ tự nhiên để:
“Dòng
sông gợn sóng đến gai lòng
Níu mây trôi ngập ngừng
Không dám buông lời nói
về những cơn mưa mùa hạ đã qua rồi”
Tâm
cảm giao mùa tiếp tục gieo những vần thơ dào dạt nhưng thi nhân đã chuyển ống kính
sang một góc khác nơi thu đọng lại và hòa tan trên những dập dình quyến luyến của
dòng sông. Ta thấy rõ ở đây sự tác động sâu sắc của Nàng Thu lên cảm xúc và nội
tâm của nhà thơ. Có mùa thu nào không mang một nỗi buồn hoài niệm! Nỗi buồn ấy
thấm vào hồn người thi sỹ hóa thành thơ. Nguyễn Hoàng Đức là người luôn tìm kiếm
những nét đẹp bi hùng, kỳ vĩ để không phải ở lưng chừng trên trục cảm xúc nên nỗi
sầu của ông dường như chưa khi nào là man mác, vu vơ, nhàn nhạt mà sống động sắc
nét rạch ròi như “Muôn dòng sông – thả những khúc sầu ra biển – xao xuyến xô
lớp lớp sóng cồn…” Nỗi buồn cũng mạnh mẽ ào ạt và dũng lược thay khi “thủy
triều tê lưỡi sóng – nếm vị nắng u hoài – bò loàng bờ cát mặn”. Thi sỹ nhìn
ra những con thủy triều vỗ bờ như những “lưỡi sóng”. Hình ảnh thơ có sự đột phá
nhưng xem chừng sự so sánh và nhân hóa ấy cũng gần gũi dễ hiểu và không độc đáo
bằng “vị nắng u hoài”. Nắng trực tiếp nhất và rõ ràng nhất là tác động đến
thị giác chúng ta và sự khắc họa màu nắng là nỗi ám ảnh của rất nhiều thi sỹ từ
thế hệ này qua thế hệ khác. Trong sự ám ảnh đằng đẵng đeo đuổi tâm hồn, người
ta còn khắc khoải đi tìm mùi nắng. Mùi nắng đọng trong tóc, trong cỏ và thơm
trong miền ký ức nhưng không mấy ai “nếm” nắng để nghe ra “vị u hoài” như thi sỹ
của Hoài Niệm Thu.
Tiếp
tục họa mùa thu, thi sỹ đi từ mây trời đến dòng sông ra cửa biển rồi họa cả “mặt
trời u uẩn” và cuối cùng dừng lại nơi cảm thức thời gian chảy rõ ràng nhất trước
hoàng hôn. Mảnh ghép cuối cùng kiện toàn bức tranh mùa thu với sự xuất hiện của
những mái nhà – dấu chỉ của con người – cũng là bước chuyển tiếp để ta đi từ bức
họa mùa thu thuộc thế giới bên ngoài vào sự suy niệm trong thế giới nội tâm.
Hoàng hôn rải lớp sương lành lạnh
nhuốm con đường đất thịt cô đơn
những mái nhà trắc ẩn nhô lên
đội nón quai thao cho những vòm cây hiền hậu
da diết tâm hồn rách dọc mái nhà
một ý nghĩa cuộc đời vừa nứt
man mác mùa thu
man mác lớp da non cơn đau mùa hạ
Những
nét bút cuối cùng của bức bích họa kỳ vĩ này không chỉ thể hiện sự tài hoa của người
họa nó mà còn thể hiện một thế giới quan độc đáo của thi nhân đặc biệt là trong
“những mái nhà trắc ẩn nhô lên – đội nón quai thao cho những vòm cây hiền hậu”.
Mái nhà, vòm cây đều là những hình ảnh thân quen hằng ngày nhưng khi thi sỹ phát
biểu “mái nhà trắc ẩn” và “vòm cây hiền hậu” đội nón quai thao thì chúng gần gũi
nhưng không còn thân quen nữa mà thổi vào lòng ta những luồng suy tưởng mới và
chắc chắn “cú nhảy về tưởng tượng” sẽ thành tựu ở đây và là kết quả tất yếu của
phép ẩn dụ. Thi sỹ đã chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng ông không chỉ có một trái
tim ấm áp, một tâm hồn mẫn cảm mà còn có những góc nhìn tinh tế, lúc đứng thật
xa để vẽ một bức tranh toàn cảnh, lúc đến thật gần để nghe “tâm hồn rách dọc
mái nhà” “man mác lớp da non cơn đau mùa hạ”.
Từ
đây tất cả nỗi đau hiện ra khắc khoải và sống động.
“Mái
tóc đau màu trắng thời gian
những chiếc lá đau mùa vàng năm tháng
Hơi thở đau khí trời se lạnh
Gió heo may đau làn sương tê tái
Ánh mắt đau cái nhìn giã biệt
nhật - nguyệt mùa thu đau trời hoài niệm
Cánh tay đau những vòng tay dứt
những dòng sông đau mùa nước cạn
Bàn tay đau những bắt tay
Cành cây đau mùa lá rụng
Bàn chân đau những chặng đường chưa tới
Và chân lý hằng đau mùa gặt...
Cơ thể đau mùa sống
Tâm hồn đau mùa luân chuyển khoái lạc và đau khổ
Khoái lạc đau khúc hoan ca
Nơi sân khấu mỏi mòn
Và đau khổ đau những thánh ca buồn
Trên thập giá cưu mang”
Vũ
trụ nhân sinh, tất cả đều mang trong mình mầm đau sự sống. Từ một thi sỹ của những
vần thơ trữ tình mang tâm cảm giao mùa Nguyễn Hoàng Đức chuyển thành một thi sỹ
triết gia trong nửa cuối thi phẩm Hoài Niệm Thu. Những nỗi đau nhân sinh ở đây
là kết tinh của những triết lý về quy luật luân hồi của cuộc sống. Vốn “trong gặp
gỡ đã có mầm ly biệt”, mọi thực thể đang sống đều là đang trên hành trình đi về
tàn lụi nên “mái tóc đau màu trắng thời gian – những chiếc lá đau mùa vàng năm
tháng” và “ánh mắt đau cái nhìn giã biệt”, “bàn tay đau những bắt tay”, “cơ thể
đau mùa sống”… Đắm mình trong những nỗi đau không thể chối từ, để “đau, đau, đau…”
vang lên dồn dập, tha thiết ta lại thấy có lúc những nỗi đau không còn là cảm
giác khó chịu do bị tổn thương về thể xác hay tâm hồn nữa mà còn là “đau” trong
niềm khao khát.
“Bàn chân đau những chặng đường chưa tới
Và chân lý hằng đau mùa gặt…”
Chặng
đường chưa tới biết sẽ chông gai hay êm ả đầy hoa thơm cỏ lạ mà bàn chân đã “đau”.
Nỗi đau ở đây ngoài sự chuẩn bị cho những tổn thương bên ngoài thì sâu thẳm bên
trong còn là đau đáu mong chờ những con đường dẫn về chân lý để “đau mùa gặt” mới.
Mùa
thu, khi không gian nhuốm màu bàng bạc ẩm lạnh hơi sương, khi những chiếc lá đổi
màu run rẩy đón cơn gió trở trời chờ về với đất là khi tâm lý con người nhiều
biến động và suy nghĩ về vòng tuần hoàn của sự sống hay còn gọi là luân hồi nhiều
nhất. Con người trong không gian ấy không chỉ sống với hoài niệm mà thường còn sống
với nỗi buồn đau u uẩn nặng nề. Khoa học đã ghi lại và dành nhiều nghiên cứu
cho hiện tượng SAD (Seasonal Affective Disorder) còn gọi là Trầm Cảm Theo Mùa.
Chứng trầm cảm này thường khởi phát vào mùa thu và khá phổ biến, dù không phải ai
cũng bị rơi vào trạng thái u uất mà SAD ghi nhận nhưng có lẽ sự ảnh hưởng là không
thể nào tránh hỏi và chính vậy mà những vần thơ mùa thu thường gợi sự tang thương
và rất buồn. Trong bản Xô-nê 73 William Shakespeare đã khắc họa mùa thu như
sau:
“That time of year thou mayst in me behold
When yellow leaves, or none, or few, do hang
Upon those boughs which shake against the cold,
Bare ruined choirs, where late the sweet birds sang.
In me thou see’st the twilight of such day
As after sunset fadeth in the west;
Which by and by black night doth take away,
Death’s second self, that seals up all in rest.”
(Sonnet
73 – William Shakespeare)
“Từ trong tôi anh sẽ thấy khoảng thời gian này của năm
Khi những lá vàng, hoặc trụi trơ, hoặc chỉ còn vài chiếc
treo ngược
Trên những cành cây run rẩy gồng mình trong cái lạnh,
Dàn đồng ca bị hủy hoại đến xác xơ, nơi những con
chim ngọt ngào muộn màng cất tiếng hát.
Từ trong tôi anh sẽ thấy bóng xế của ngày tàn
Khi hoàng hôn mờ dần phái chân trời đằng tây,
Và đêm đen kéo đến, khoảnh khắc nối khoảnh khắc mang
chúng đi
Cánh tay tử thần chìa ra phong tỏa mọi lối.”
(Lệ
Hằng dịch)
Cũng
là sự nuối tiếc và cảm thức về vòng tuần hoàn nở rồi tàn của sự sống nhưng đến
với Hoài Niệm Thu của Nguyễn Hoàng Đức đau buồn đã mất phần bi lụy mà thay vào đó
là tâm thế chủ động đón nhận nỗi đau và hơn thế nữa, những nỗi đau tạc nên vẻ đẹp
kiêu hùng của mình như “đau khổ đau những thánh ca buồn – trên thập giá cưu
mang”. Thi sỹ dường như luôn ở đó, trong tư thế sẵn sàng đón nhận mọi buồn
vui thế tục bởi sự minh triết đã giúp ông ý thức rõ ràng rằng không chỉ con người
mà vạn vật không gì tránh khỏi được những nỗi đau cũng như gánh nặng của chính
mình. Đồng thời, nỗi đau hay gánh nặng ấy lại làm nên giá trị của chính mình
trong vũ trụ. Đây là điểm nổi bật và nhất quán trong tư tưởng của thi nhân mà
ta có thể tìm thấy rõ ràng trong thi phẩm Giao Hưởng Mùa Xuân.
“Vinh quang thay những hàng nước mắt
Chúng thanh lọc con người!
Và, ta hát lời biết ơn Vũ trụ
về định mệnh trầm luân
sẽ giải phóng trong vòng nhân quả…”
và:
“xin hãy cho tôi vinh quang
xứng với
những ngày tôi chịu đựng
chặng đường tôi đi
gánh nặng tôi mang
và gánh nặng tôi đã cất khỏi
vai người khác!”
(Giao hưởng mùa xuân – Nguyễn Hoàng Đức)
Những
nỗi đau trong Hoài Niệm Thu từ mái tóc, hơi thở, ngọn gió heo may, cánh
tay, bàn chân, cơ thể, tâm hồn, khoái lạc và cả đau khổ nữa đều là những nỗi đau
hiển nhiên của kiếp sống nhân sinh và tư thế sẵn sàng nhận lấy tất cả như chính
cuộc đời vốn đã vậy tạo nên hơi thở mạnh mẽ dứt khoát cho những vần thơ để cuối
cùng:
“Linh hồn ta đau khúc bi hùng
Ca trên những ngọn đồi Hy Lạp
Theo mây thời gian tỏa
Theo gió đời lan
Theo lịch sử khơi dòng
về đây cuốn lên một vòm trời hoài niệm
khơi thẳm mãi hồn ta
mãi tim ta
mãi thân ta
một khúc ca xanh về cuộc đời hy vọng
dâng tràn mọi ký ức u buồn
như vòm trời thu vọt qua những tầng mây ngâu lã chã
mãi mãi dâng lên!”
Tất
cả những khổ ải trầm luân, những bi thương nặng gánh cuộc đời cuối cùng vút bay
lên khỏi thế giới mà thân thể trần tục của thi nhân thuộc về để để hoan ca trên
ngọn đồi của thánh thần và huyền thoại. Nỗi đau đã tìm về đích, sự bi hùng có nơi
cập bến trong ý nghĩa trọn vẹn của một con người toàn thể. Thi nhân ơi, anh là ai? Ắt hẳn rằng mỗi người trong chúng ta có một hình ảnh cũng như định nghĩa riêng
về họ và chính họ cũng tự định nghĩa chính mình trong sáng tạo. Có thể họ là người
suốt đời mang u hoài lãng mạng vẽ nên một chốn bồng lai miên viễn đầy những khổ
đau và hoan lạc mà người trần mắt thịt khó lòng bước vào, có khi họ là người ôm
trái tim hồn nhiên tung tăng giữa cuộc đời thăng trầm dâu bể… Và nếu ta tìm kiếm
một hình ảnh hay một định nghĩa ở Nguyễn Hoàng Đức thì đó sẽ là chân dung một
con người chấp nhận đau hết nỗi đau thế tục để vác chiếc “thập giá cưu mang” đi
giữa cuộc đời khổ đau và hoan lạc. Khoan hãy nói rằng người thi nhân ấy đã làm được
gì mà trước tiên hãy nhìn nhận rằng trong nghệ thuật, việc xác định và thống nhất
trong tư tưởng của người cầm bút là điều đáng trân quý vô cùng vì chỉ có như vậy
tác phẩm của họ mới mang một đích đến và dự phóng cho tương lai.
Thi
phẩm đóng lại khi thi nhân đặt dấu chấm than cuối cùng nhưng ý thơ, hồn thơ lại
như đang mở ra “khơi thẳm mãi hồn ta – mãi tim ta – mãi thân ta – một khúc ca
xanh về cuộc đời hy vọng…” Tiếng vọng của Hoài Niệm Thu chắc chắn còn mãi
trong lòng người đọc nếu ta cho nó một thời gian vừa đủ để thơ ngấm vào hồn.
Từ bức tranh thu đến những nỗi đau bi hùng trên thập
giá cưu mang, Nguyễn Hoàng Đức đã dẫn khách thơ đi hết một trời hoài niệm và quý
lắm thay khi không một câu một chữ nào trong bài là thừa hay thiếu tinh tế. Mỗi
câu thơ đều là một tuyệt ý dưới bàn tay tạo tác nghiêm túc và trí tuệ của thi
nhân. Và xét theo những tiêu chí cơ bản mà đã được nhắc trong bài mở đầu “Trước
cổng vườn thơ bàn về thơ” thì mỗi dòng thơ đều mang hàm lượng “chất thơ” rất lớn
từ bút pháp đến tư tưởng và có lẽ để bình bầu chọn ra một câu thơ hay nhất là cũng
là điều không dễ.
Lệ Hằng
Đà Nẵng, 14/08/2019
*******
HOÀI
NIỆM THU
Nguyễn
Hoàng Đức
Vòi
vọi trời xanh thẳm nâng lên
mỗi lần dâng mỗi lần quặn thắt
vắt
nỗi đau qua những lớp mây mù
nặng ký ức mùa ngâu rả rích
lã
chã vấn vương
chưa nguôi lệ sầu lòng đất sũng
Dòng
sông gợn sóng đến gai lòng
Níu
mây trôi ngập ngừng
Không
dám buông lời nói
về
những cơn mưa mùa hạ đã qua rồi
Muôn
dòng sông
thả
những khúc sầu ra biển
xao
xuyến xô lớp lớp sóng cồn
dồn
dập vỗ buồn mê mùa gió chướng
thủy
triều tê lưỡi sóng
nếm
vị nắng u hoài
bò
loang bờ cát mặn
những
sợi sáng se dìu dịu
của
mặt trời u uẩn
nuối
tiếc tuổi thanh xuân
ngày
nào chang chang mùa hạ
ngổ
ngáo sao và mãnh liệt sao
Hoàng
hôn rải lớp sương lành lạnh
nhuốm
con đường đất thịt cô đơn
những
mái nhà trắc ẩn nhô lên
đội
nón quai thao cho những vòm cây hiền hậu
da
diết tâm hồn rách dọc mái nhà
một
ý nghĩa cuộc đời vừa nứt
man
mác mùa thu
man
mác lớp da non cơn đau mùa hạ
Mái
tóc đau màu trắng thời gian
những
chiếc lá đau mùa vàng năm tháng
Hơi
thở đau khí trời se lạnh
Gió
heo may đau làn sương tê tái
Ánh
mắt đau cái nhìn giã biệt
nhật
- nguyệt mùa thu đau trời hoài niệm
Cánh
tay đau những vòng tay dứt
những
dòng sông đau mùa nước cạn
Bàn
tay đau những bắt tay
Cành
cây đau mùa lá rụng
Bàn
chân đau những chặng đường chưa tới
Và
chân lý hằng đau mùa gặt...
Cơ
thể đau mùa sống
Tâm
hồn đau mùa luân chuyển khoái lạc và đau khổ
Khoái
lạc đau khúc hoan ca
Nơi
sân khấu mỏi mòn
Và
đau khổ đau những thánh ca buồn
Trên
thập giá cưu mang
Linh
hồn ta đau khúc bi hùng
Ca
trên những ngọn đồi Hy Lạp
Theo
mây thời gian tỏa
Theo
gió đời lan
Theo
lịch sử khơi dòng
về
đây cuốn lên một vòm trời hoài niệm
khơi
thẳm mãi hồn ta
mãi
tim ta
mãi
thân ta
một
khúc ca xanh về cuộc đời hy vọng
dâng
tràn mọi ký ức u buồn
như
vòm trời thu vọt qua những tầng mây ngâu lã chã
mãi
mãi dâng lên !
Hà
Nội, 22/9/1997
***
Bản
dịch bài Hoài Niệm Thu
(thơ
Nguyễn Hoàng Đức)
NOSTALGIC
AUTUMN
(translated
by Linh Vũ)
The
bluest sky kept elevating
Each
elevation was a cramp
Wrung
its suffers through layers of mist
Deep
memories of wet season
Sorrowful
tears streaming down
Sadness,
not yet alleviated, soaking the ground.
The
river's undulating waves touched the heart
Holding
on to hesitantly flowing clouds
Afraid
of wording
About
the summer rains having passed.
Thousands
of rivers
Released
their melancholy streams onto the sea
Flutteringly
pushed the rising waves
Hastily
tapped sadness, mesmerized the northeast wind
Tide
numbed the tongue of waves
Tasting
the nostalgic sunshine
Spreading
on the salty sand
The
chilly tender sun rays
Of
the gloomy sun
Regretting
its youth
In
the blazing summertime
How
insolent and how mighty
Twilight
sprinkled cold fog
Penetrating
the lonely flesh path
Merciful
roofs rose up
Wearing
fringed flat palm hats on the kind trees.
Longing,
my soul was tearing along the roofs
Just
flashed up a meaning of life
Melancholic
autumn
Melancholic
healing skin from the summer pain.
Hair
endured the white color of time
Leaves
endured the yellow season of months and years
Breath
endured the cold weather
Autumn
breeze endured chilly fog
Eye
gleams endured a farewell look
Autumn
sun and moon endured nostalgic firmament
Arms
endured broken embraces
River
streams endured dry weather
Hands
endured hand-shakes
Tree
branches endured the season of falling leaves
Feet
endured upcoming journeys
And
truth always endured the crops
Body
endured living
Soul
endured the rotation of pleasure and sorrow
Pleasure
endured joyful melody
on
the worn-out stage
Enjoyment
endured melancholy hymns
on
the cross of supporting
My
soul suffered the tragic-hopeful song
Singing
on the Greek hills
Spreading
along the cloud of time
Expanding
along the wind of life
Restarting
the stream of history
Coming
back to roll up the domed sky of nostalgia
Digging
deep down into my soul
Steadily
in my heart
Persistently
in my body
A
green song of hopeful life
Overflew
all somber memories
Like
the Autumn sky overcomes the clouds of drizzling
And
forever and ever elevated!
Từ tuyệt tác hội họa đến nỗi đau bi hùng trên thập giá nhân sinh
Reviewed by Lê Sính
on
12:18 PM
Rating:

No comments: